Đề bài: Giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu
Bài giảng Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Cô Nguyễn Dung (GV)
Về Nguyễn Đình Chiểu – mẫu thư 1
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) sinh tại làng Tân Khánh, huyện Tân Bình, tỉnh Gia Định, xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ. Học giỏi, giàu lòng hiếu thảo, suốt đời sáng ngời nhân nghĩa, yêu nước thương dân.
Một đời tư đầy bi kịch: mù lòa, làm ăn dở dang… Tình buồn: nước ta bị giặc Pháp xâm lược, đất phương Nam mất dần vào tay giặc.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của nước ta nửa sau thế kỷ 19.
Dự án bao gồm:
– Truyện thơ: “Truyện Lục Vân Tiên”, “Dương Tử Hà Mậu”, “Ngự Tiêu y vấn đáp”.
– Nhiều bài thơ, bài văn tế đẹp: “Chạy giặc”, “Vatican liệt sĩ Cần Giuộc”, “Vatican Trương Định”, “Vatican liệt sĩ trận Lục tỉnh”, v.v…
Tất cả thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, giàu lòng yêu nước, thương dân, sục sôi căm thù giặc.
Về Nguyễn Đình Chiểu – mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Ông sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, tổng Tân Bình, phủ Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, từ nhỏ đã rất thông minh, hiếu học và chăm chỉ. Năm 12 tuổi, vì thời thế loạn lạc, cha gửi ông vào Huế học tập và sinh sống. Năm 19 tuổi, ông trở lại Gia Định tiếp tục sự nghiệp khoa cử và ba năm sau (1843) ông thi đỗ tú tài tại trường thi Gia Định.
Năm 1846, Nguyễn Đình Chiểu trở về Huế học tập và chuẩn bị cho kỳ thi tiếp theo tại quê cha, nhưng khi sắp bước vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi. thi rồi vào Nam chịu tang (1849). Trên đường về, do thời tiết thất thường, làm việc nhiều và khóc nhiều nên ông bị ốm và bị mù cả hai mắt. Trong thời gian vào Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không khỏi nhưng ông được một danh y truyền dạy nghề thuốc. Sau đó, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Từ đó, tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp Lục tỉnh.
Năm 1859, giặc Pháp đánh Gia Định, tuy không trực tiếp ra trận nhưng ông vẫn hăng hái tham gia các phong trào yêu nước và âm mưu chống lại các thủ lĩnh nghĩa quân của giặc. Ông còn tích cực sáng tác văn học phục vụ kháng chiến, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân ta.
Sau khi 6 tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, ông trốn về quê vợ ở Cần Giuộc rồi lên Ba Tri (tỉnh Bến Tre). Tại đây ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và sáng tác để phục vụ nhân dân, một lòng trung thành với Tổ quốc cho đến hơi thở cuối cùng.
2. Sự nghiệp sáng tác:
Có lẽ cuộc đời gặp quá nhiều bất hạnh, gian khổ nên tư tưởng, tình cảm và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu được nâng lên một tầm cao mới. Thơ văn của ông luôn mang nặng những lý tưởng đạo đức nhân văn, những giá trị nhân văn trong cuộc sống, qua đó đề cao lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân, ca ngợi những con người có chí làm nghĩa. . sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước.
Hầu hết các tác phẩm chính của ông đều được sáng tác bằng chữ Nôm. Tập thơ đầu tiên và nổi tiếng nhất của ông là “Lục Vân Tiên”. Đây là một tác phẩm vô cùng ý nghĩa và đặc sắc mang đến cho người đọc nhiều bài học sâu sắc về truyền thống và đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Ngoài ra, ông còn sáng tác một số tác phẩm phản ánh trung thực thời kỳ đau thương của đất nước và tố cáo tội ác của giặc như: Chạy trốn giặc, Ngư Tiều khám bệnh, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Chiểu còn nổi tiếng với một số tác phẩm để lại ấn tượng trong lòng người đọc như:
+ Dương Tử Hà Mậu
+ Mười hai bài thơ của Trương Định (1864)
+ Mười bài thơ của Phan Tông (1868)
+ Liệt sĩ trong trận Lục Tỉnh (1874)
+ Hịch kêu gọi nghĩa quân đánh Tây
+ Đánh chuột
Nguyễn Đình Chiểu đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc, cho nền văn học nước nhà. Ông là tấm gương sáng về ý chí nghị lực phi thường, về đạo đức con người và lòng yêu nước, căm thù giặc. Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông sẽ sống mãi trong lòng người dân Việt Nam.
Về Nguyễn Đình Chiểu – 3 kiểu mẫu
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phu, hiệu là Hối Trai. Sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Khánh, tổng Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).
Thân phụ tên là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, (nay là xã Phong An, huyện Phong Điền, TT-Huế), thư của Tổng đốc Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiết, người làng Thanh Ba, tổng Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Khi còn là một thiếu niên, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến những biến động của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định. Cuộc nổi loạn này khiến cha ông phải chạy vào Huế và bị cướp. Năm 1833, cha ông vào Nam, đón ông gửi cho một người bạn ở Huế để ông tiếp tục học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ năm 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843, ông đỗ Tú tài trường thi Gia Định, đúng vào tuổi 21. Khi ấy, một gia đình họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847, ông vào Huế học để chờ khoa thi Kỷ Dậu 1849. Chưa kịp đi thi thì nghe tin mẹ mất ở Sài Gòn (1849). Trên đường về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, làm việc vất vả và hay khóc nhiều nên anh bị bệnh và mù cả hai mắt. Trong thời gian vào Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không khỏi nhưng ông được một danh y truyền dạy nghề thuốc.
Mù lòa, mẹ mất, hôn thê chia tay, gia cảnh sa sút… ông ở ẩn cho đến năm 1851, ông mở trường dạy học và làm thuốc.
Năm 1854, nhà nho tên là Lê Tăng Quýnh vì ngưỡng mộ và yêu mến ông đã xin gia đình cho cưới người chị thứ năm là Lê Thị Điền (1835-1886), quê ở Cần Giuộc (Long An). ), dành cho giáo viên…
Từ đó, gần chục năm sau, ngoài những việc trên, ông còn làm thơ về Lục Vân Tiên và Dương Tu – Hà Mậu, để gửi gắm tình yêu và hoài bão của mình.
Ngày 17-2-1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng chính tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được nhiều người đánh giá cao.
Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay thực dân Pháp, không chịu bỏ thuộc địa, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuống thuyền đến làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Tre). sống. ). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời giữ liên lạc với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; Từ chối mọi cám dỗ của đối phương.
Trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu đã viết những bài thơ bi tráng nhất, thương tiếc đồng bào, bạn bè và liệt sĩ.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông qua đời tại Ba Tri, Bến Tre. Chuyện kể rằng, ngày ông an táng, cả cánh đồng An Bình Đông nay là An Đức phủ khăn tang của những người yêu mến ông.
Bài giảng Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Cô Nguyễn Ngọc Anh (giáo viên)
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập kế hoạch tác phẩm lớp 9:
Mục lục Biểu mẫu | Văn học hay 9 theo từng phần:
Các chuyên đề lớp 9 khác
Danh Mục: Ngữ Văn
Web site: http://thpt-vinhdinh-quangtri.edu.vn/