Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí hay nhất (22 Mẫu)

Bạn đang xem: Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí hay nhất (22 Mẫu) tại vothisaucamau.edu.vn

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí bao gồm dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu hay nhất do THPT Lê Hồng Phong lựa chọn lọc từ những bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc sẽ giúp những em lớp 9 biết cách kể chuyện sáng tạo theo thứ bậc nhất, cảm nhận sâu sắc hơn về trị giá nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

Đề bài: Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Để đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí đạt yêu cầu, những em cần sử dụng ngôi kể thứ nhất (tôi), theo tuần tự của bài thơ để phác họa lên sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội.

Dàn ý Đóng vai người lính kể lại bài Đồng chí chi tiết

1. Mở bài

Đóng vai người lính giới thiệu câu chuyện.

2. Thân bài

– Kể về sự gặp gỡ và quá trình trở thành đồng chí của những người lính.

  • Sự tương đồng về hoàn cảnh, xuất thân nghèo túng.
  • Cùng chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau trong chống chọi.
  • Tình đồng chỉ nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ, viện trợ.

– Kể về kỉ niệm gian lao cùng tình đồng đội gắn bó keo sơn.

  • Những gian lao, thiếu thốn của thế cục người lính: sốt rét, áo rách, quần vá, chân không giày
  • Sự gắn bó và đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh: nắm lấy tay nhau, nở nụ cười động viên nhau.

– Nhớ lại những đêm cùng nhau canh gác.

  • Không gian: rừng hoang, sương muối
  • Thời gian: đêm
  • những người lính đứng cạnh bên nhau thực hiện nhiệm vụ.
  • Đêm khuya, ánh trăng như sà thấp xuống, treo trên đầu ngọn súng.

3. Kết bài

Nêu cảm tưởng về quá khứ và tình đồng đội.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí ngắn gọn

Tôi là người lính những năm tháng chống Pháp cứu nước. Giờ đây khi chiến tranh đã qua đi rất lâu rồi nhưng trong lòng tôi vẫn không thể nào quên đi được những hồi ức của cuộc chiến năm xưa.

Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân cơ hàn và nghèo túng. Như bao thanh niên trai tráng trong làng khác, khi cuộc chiến chống thực dân Pháp bước vào thời khắc cao trào, tôi xung phong lên đường tòng ngũ. Trong thời gian tôi tòng ngũ và chính thức trở thành một người lính quân nhân cụ Hồ, tôi đã quen và thân thiết với những người lính khác cũng ở độ tuổi trai tráng như tôi. Họ cũng đều là những người tới từ những vùng quê khác nhau của quốc gia và bỏ lại tất cả bạn bè, gia đình quê hương để đi theo tiếng gọi của tổ quốc.

Chúng tôi từ những kẻ xa lạ, đã cùng nhau sống và chống chọi thân thiết như những người anh em ruột thịt. Trong điều kiện khó khăn và thiếu thốn ấy, chúng ta san sẻ cho nhau từ tấm chăn tới miếng cơm, manh áo.Vì thời gian ở rừng là chủ yếu nên chúng tôi đều bị sốt rét. Đầu đau và thân thể thì lạnh và mệt vô cùng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cùng nhau yêu thương, kết đoàn và đùm bọc nhau, cũng như gọi nhau một tiếng đồng chí thắm thiết. Vào những ngày tập kích giặc trong rừng, chúng tôi luôn cùng nhau nín thở để chống chọi, cùng nhau kề vai sát cánh, vào sinh ra tử dưới ánh trăng rọi xuống màn sương muối trong rừng.

Bây giờ tôi đã tuổi cao sức yếu, còn người đồng chí của tôi năm xưa đã yên nghỉ được mấy năm nay. Chúng tôi đã từng có những tháng ngày oanh liệt, hy sinh cho dân tộc quốc gia như thế đó.

Dong Chi 700 1Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí ngắn gọn

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí ngắn hay nhất

Tôi của những năm tháng kháng chiến là một đội viên của đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô. Tôi đã cùng đơn vị của mình tham gia chống chọi suốt chiến dịch Thu đông năm 1947. Từ chiến dịch ấy tôi đã có những kỉ niệm sâu sắc, không bao giờ quên cùng những đồng chí, đồng đội của mình.

Tình đồng chí cao cả thiêng liêng nhưng cũng rất sắp gũi, bình dị. Bởi chúng tôi đơn thuần là những người cùng chung xuất thân, cùng chung lí tưởng chống chọi và khát vọng thắng lợi. Chúng tôi đều sinh ra ở những làng quê nghèo, nghèo ăn, nghèo mặc nhưng không nghèo ý chí. Chính hoàn cảnh đó đã khiến chúng tôi từ những phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ và trở nên quen thói. Tình đồng chí giữa chúng tôi phát sinh từ việc đơn thuần như chung nhiệm vụ, chung hoàn cảnh khốn khó, chung chiếc chăn đắp trong đêm rét buốt. Hai từ đồng chí để mà nói hết thì dông dài và sâu xa lắm, chỉ có đặt mình vào hoàn cảnh ấy mới có thể hiểu hết được.

Tôi hay bất cứ người lính nào một khi đã coi nhau là đồng chí thì mọi tâm tư, nỗi lòng đều không thể giấu kín. Trong mọi hoàn cảnh đều không một mình, dù áo tôi rách thì quần người khác cũng có vài mảnh vá. Chúng tôi nhìn nhau vẫn có thể cười trong mọi hoàn cảnh, dù là chân không giày trong trời lạnh buốt giá. Ở nơi rừng sâu nước độc, chúng tôi không tránh khỏi những cơn ớn lạnh, những trận sốt rét thập tử nhất sinh. Thế nhưng có tình đồng chí, có bàn tay khác nắm tay ta thì mọi sự đều qua.

Còn nhớ những đêm canh gác, chúng tôi – những người lính đứng giữa rừng hoang, sương muối, vẫn sát cánh bên nhau, cùng nhau chờ giặc tới. Chúng tôi nhìn về phía vầng trăng, vầng trăng sà thấp xuống như đang treo trên đầu súng, khi ấy tôi hiểu thế cục người lính đâu chỉ có gian khổ và nguy hiểm, còn có cái đẹp, đẹp của tình người – tình đồng chí.

Đã xa rồi cái thời gian lao chống chọi khắp những mặt trận. Thế nhưng, đối với tôi, tôi vẫn luôn khắc khoải nỗi nhớ đồng đội của mình. Có người đã mãi ra đi, có người chẳng còn nhìn thấy tôi nữa. Nhưng sau tất cả, chỉ cần trái tim tôi vẫn in hình bóng họ, vẫn còn nhớ những kỉ niệm thì tình đồng đội vẫn còn sống mãi.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 1

Thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam đã kết thúc khoảng thời gian yên bình ít ỏi của dân tộc ta sau thắng lợi 1945. Lúc bấy giờ, chính phủ đã phát hành lệnh tổng động viên và tôi – một người nông dân mang lòng yêu nước nồng nàn – đã quyết định tạm biệt quê hương lên đường kháng chiến. Mỗi một người tham gia chống chọi lần này đều mang theo quyết tâm không để quốc gia rơi vào tay bất kỳ bọn tàn bạo thêm một lần nào nữa.

Trước nay tôi chỉ quen với việc cầm cuốc lo việc đồng áng, nay phải cầm súng và vũ khí khiến tôi cảm thấy có chút không quen, cũng có chút hồi hộp. Nhưng với ý thức yêu nước cùng ý chí quyết tâm tới cùng, tôi tin rằng không có gì là không thể. Chúng tôi cứ thế hành quân khắp những nẻo đường trận mạc, không sợ đêm tối, không sợ bom đạn. Bởi vì hơn người nào hết, tôi cùng anh em đồng đội nơi đây đều là những người mong muốn quốc gia được độc lập tự do. Vậy nên dù khó khăn hơn nữa, thậm chí hy sinh bản thân mình chúng tôi cũng cam lòng.

Năm 1947, chúng tôi tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác. Vốn mỗi người đều tới từ những nơi khác nhau, chẳng hứa mà quen rồi trở thành những người đồng chí, anh em một nhà, cùng chia sẻ mọi ngọt bùi, đắng cay trong cuộc sống nơi sa trường. Sợi dây vô hình gắn kết chúng tôi chính là tình yêu nước mãnh liệt. Và không biết tự bao giờ, chúng tôi trở thành tri kỉ, cùng nhau đỡ đần nhau vượt qua những trắc trở trong sinh hoạt, chống chọi.

lúc đó, chúng tôi phải sống trong cảnh vô cùng thiếu thốn, thậm chí cả quân trang, quân dụng cũng chẳng đủ mà sử dụng. Hai anh em trong đoàn sẽ cùng chia nhau một tấm chăn đơn đắp tạm qua những đêm giá rét. Ngày ấy, rừng Trường Sơn là nơi nguy hiểm vô cùng. Có lần, cả đơn vị tôi đều bị bệnh sốt rét rừng. Anh em nào cũng vì vậy mà vàng cả da, rụng cả tóc, cả người xanh xao như tàu lá chuối. Khó khăn vất vả là thế, nhưng chúng tôi cũng không quên cho nhau những lời động viên, cho nhau những tiếng cười vui vẻ xua tan đi khó khăn.

Nhớ nhất là những ngày đông tới, cái lạnh bao phủ khắp nơi, nhưng anh em trong đoàn nào có đầy đủ quần áo ấm mà mặc, chỉ có thể dựa vào nhau, truyền nhau khá ấm, tiếp thêm sức mạnh chống chọi để vượt qua bệnh tật. Nhiều đêm nằm tâm sự mới biết, cũng có rất nhiều đồng chí phải bỏ ruộng nương ở nhà nhờ bạn thân cấy cày, bỏ cả ngôi nhà liêu xiêu có mẹ già con thơ để cầm súng chống chọi.

Giữa đêm đông nơi núi rừng Trường Sơn, nhường nhịn như bóng trăng vẫn luôn dõi theo chúng tôi. Nhìn trăng, không người nào nói người nào câu nào, chỉ nghe tiếng gió hẻo lánh thổi trên ngọn cây mà lòng vẫn rét mướt. Chúng tôi biết rằng, cuộc chiến này hãy còn dài và chúng tôi còn phải rời xa quê hương lâu lắm, có khi còn chẳng có thời cơ trở về.

Dẫu có chút rầu rĩ và nhớ nhung, nhưng nhìn về lá cờ đỏ sao vàng đang phơi phới tung bay kia, mọi lo lắng và sợ hãi nhường nhịn như đều tan biến hết. Rồi sẽ có ngày, chúng tôi đem ngọn cờ kia hiên ngang cắm tại mọi miền tổ quốc. Sống và chống chọi cho lý tưởng cao đẹp tương tự, dẫu có phải hi sinh nơi chiến trường này, chúng tôi cũng cam lòng.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 2

thắng lợi 1945 mới kết thúc chưa được bao lâu, tôi – người nông dân ở vùng quê nghèo túng còn chưa kịp tận hưởng niềm vui độc lập thì thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược trở lại. Theo lệnh tổng động viên của chính phủ, tôi để lại quê hương mà lên đường kháng chiến, mỗi người chúng tôi đề quyết tâm không để quốc gia mình rơi vào tay của thực dân pháp một lần nào nữa.

Dù trước chỉ quen cầm quốc, cầm xẻng, lo việc đồng áng và vườn tược, nay tuy cầm suy có chút không quen nhưng tôi tin với ý thức yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm của mình thì không gì là không thể. Chúng tôi hành quân khắp những nẻo đường trận mạc, chúng tôi không sợ đêm tối vì có trăng soi đường bước đi. Tôi và những người đồng đội ở đây hơn người nào hết là những người mong muốn quốc gia được độc lập tự do, bởi vậy mà cho dù khó khăn gian lao tới đâu cũng giành cho bằng được.

1947, chúng tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác, vốn là không quen nhau đó mà nay đã trở thành những người đồng chí, anh em một nhà, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, đắng cay. Thứ gắn kết chúng tôi ở đây chính là ý thức yêu nước có trong mỗi con người, chúng tôi trở thành tri kỉ không biết tự bao giờ.

Vẫn nhớ lúc đó chúng tôi sinh hoạt thiếu thốn, tới quân trang, quân dụng còn chẳng đủ để sử dụng, hai người phải chia nhau một tấm chăn đơn. Rừng Trường Sơn nguy hiểm lắm, ma thiêng nước độc, có lần cả đơn vị tôi bị bệnh sốt rét rừng mà vàng da, rụng tóc, cả người xanh như tàu lá chuối, nhưng thật hay là chúng tôi chưa bao giờ ngừng tiếng cười. Mùa đông tới, cái rét như cắm vào da thịt chúng tôi, người thì áo rách, người thì quần đầy mảnh, có người thì chân không giày,… Chúng tôi cứ vậy mà dựa vào nhau, truyền cho nhau khá ấm, nắm tay nhau tiếp thêm sức mạnh chống chọi và vượt qua bệnh tật. Có đêm tôi và một người đồng chí tâm sự với nhau, anh nói ruộng nương ở nhà anh nhờ bạn thân cấy cày, bỏ lại ngôi nhà tranh liêu xiêu cuối láng, dứt lòng để lại cả mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận đụng độ đấu.

Dù khó khăn gian khổ tới mấy chúng tôi chưa bao giờ vơi được tiếng cười, giữa không gian núi rừng Trường Sơn đại nghìn đó, dưới cái trời lạnh căm căm đó chúng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không người nào nói với người nào câu nào, chỉ nghe thấy tiếng gió hẻo lánh thổi trên ngon cây mà lòng vẫn thấy rét mướt. Cuộc chiến còn dài, chúng tôi những người lính vùng quê này vẫn còn phải rời xa quê hương thêm khoảng thời gian nữa. Tuy trong lòng có chút rầu rĩ, nhưng cứ hễ nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng phơi phới tung bay thì mọi lo lắng, sợ hãi đều tan biến hết. Tôi và những người đồng đội nơi đây chất nhận mọi gian khổ, khó khăn để có thể đưa lá cờ đỏ sao vàng đỏ tung bay giữa bầu trời hòa bình. Sống và chống chọi cho lí tưởng cao cả tương tự, đời lính chúng tôi đâu còn gì tuyệt vời bằng.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 3

những bạn! Hòa bình quốc gia được lặp lại, tôi là người may mắn trong số những người lính được trở về quê hương, sau những ngày kháng chiến gian lao, đứng giữa sự sống và cái chết. tới bây giờ được sống trong hòa bình, độc lập, trong lòng tôi vẫn luôn thèm khát được một lần về thăm quê của bạn, quê người đồng chí của tôi.

Tôi là anh cả trong một gia đình có sáu anh em, cha mẹ tôi là những người nông dân vất vả, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, sống trên một vùng quê khó khăn ” đất cày lên sỏi đá”, tôi luôn mong muốn quê mình giàu có, đẹp hơn nữa. Cuộc kháng chiến vừa khởi đầu, tôi lại xin tòng ngũ. Rời quê hương lên đường, tôi nghĩ trong thời gian tới nhất định tôi sẽ lập được rất nhiều công lớn giúp ích cho nhân dân? tôi bây giờ đã trở thành một người lính ư? tôi có thể cầm súng chống chọi ư? thật hạnh phúc biết bao.

Vào quân đội tôi được cử lên Việt Bắc – nơi chiến trường khốc liệt nhất của chiến tranh. Ngày ra quân, hành quân trên phố đi tới Việt Bắc tôi mới thấy sự cực nhọc, vất vả của những người lính cụ hồ, tới nơi, những người lính đi trước chúng tôi hai ngày đã nghĩ sẵn ở đó. nổi trội trong số đó, người có thiện cảm với tôi từ lần trước tiên là một anh lính trạc bằng tuổi tôi, dáng người cao cao, trông thật nhanh nhẹn, như một phản xạ, tôi nhanh chóng tới bắt chuyện với anh.

– Chào cậu!

– Ừ! chào bạn!

Anh ấy có vẻ hơn ngại ngùng, chỉ cười gượng gạo. Như đã được định sẵn tôi với anh cùng chung một tiểu đội mang tên BK107. Đêm về tôi không sao ngủ được lại càng nôn nao muốn kết thân với anh lính trẻ. Tôi sát lại sắp anh, thở một khá thật mạnh, nói thủ thỉ:

– Chiến tranh khốc liệt nhỉ?

Người con trai ấy khá sững sờ, chắc là tại vì tôi quá tự tin. Không sao, tôi là người tương tự mà, tôi cười một mình. Mở tròn mắt nhìn anh với vẻ mặt y như một đứa trẻ đòi quà, tôi mong nhận được câu trả lời. Có vẻ lần này anh ấy đỡ ngại hơn.

– Cậu ở đâu lên vậy? chắc ngoài Bắc hả?

– Vâng, tớ ở xuôi lên, tớ muốn nước mình độc lập lắm! còn cậu, cậu ở đâu?

Câu chuyện dần linh động và tự nhiên hơn.

Mình ở Nam Định, vùng “nước năm đồng chua”, khổ lắm! Con người chân lấm tay bùn.

Vậy là từ hai người xa lại chúng tôi đã trò chuyện và quen nhau, ngày cùng nhau làm nhiệm vụ, tối đắp chung chăn. Đứng cạnh bên nhau, nhìn về phía xa xa, tôi và người lính ấy mong sao hòa bình được lặp lại, chiến tranh kết thúc. nếu như không có chiến tranh thì chắc chắn sẽ không có những giọt máu rơi xuống, sẽ không có những giọt nước mắt rơi xuống, tiếng khóc chờ chồng, chờ cha.

Cuộc gặp gỡ lần đầu của chúng tôi tuyệt biết bao! Ngày ngày hôm nay gặp lại sức anh em ấy, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỉ niệm xưa, ngồi bên nhau ôn lại kỉ niệm, sao ngày ấy dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh mà chúng tôi vẫn luôn nở nụ cười trên môi, kết thúc tuổi thanh xuân trong chiến tranh, chúng tôi ngày càng già đi, tóc bạc phơ mái đầu, nhưng sự hi sinh của chúng tôi thật là đáng. Tôi giở cuốn ảnh lưu giữ tình bạn ra xem, cùng hàn ôn đủ chuyện trên đời, tình đồng chí

Được gặp lại nhau trong hòa bình, tình bạn xưa dâng trào trong trái tim mỗi chúng tôi, chiến tranh đi qua nhưng mọi thứ ngày ấy vẫn còn diễn ra trước mắt chúng tôi. Làm sao chúng tôi quên được nhau, quên được tình bạn ấy, thật tuyệt vời!

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 4

“Chín năm làm một Điện BiênNên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”

Chắc chắn đây đã là một câu thơ hay và gợi đầy ấn tượng trong kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc. Để có thể làm nên được thắng lợi Điện Biên thì quân nhân ta phải trải qua bao nhiêu khó khăn, vất vả. Tôi còn nhớ như nguyên thời gian tham gia trận đấu khốc liệt cùng đồng đội để bảo vệ quê hương năm nào.

Khi nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng Hồ thì tôi cùng nhiều thanh niên khác hăm hở lên đường đi đánh giặc để bảo vệ non sông. Đối với chúng tôi lúc đó được cầm súng, được trở thành một người lính thực sự là một niềm vui lớn khôn kể xiết được. Tôi vốn xuất thân là nông dân, hành trang của tôi chẳng có gì ngoài lòng nồng nàn yêu nước và căm thù giặc sâu sắc lắm. lúc đó thì tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, ở trong đơn vị tôi được biết tới có tương đối nhiều người có xuất thân và hoàn cảnh giống tôi. những người lính chúng tôi xuất thân từ những vùng quê nghèo và như thế chúng tôi nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết của nhau. Có thể nói rằng điều trước tiên chúng tôi trao đổi là về miền quê của mỗi người ra sao.

Thực sự những người nông dân mặc áo vải, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc như chúng tôi ra đi mà không lưu luyến là nói láo. Thế nhưng vận nước đang lâm nguy, chẳng một người nào có thể ngồi yên chờ đợi được. lúc đó thì tôi cùng đồng đội đành phải gác lại tất cả, quyết chí hy sinh vì Tổ quốc và bảo vệ non sông.

Đi lên Tây Bắc vốn nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc, ở đó nổi tiếng với những cơn sốt rét rừng vẫn còn sợ hãi tôi tới tận bây giờ. Chỉ cần mỗi khi nghĩ lại vẫn thấy rùng mình ớn lạnh và cảm thấy thật kinh khủng. Tôi dám chắc rằng nếu như người nào mà trải qua rồi mới biết cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, còn bên ngoài thì nóng toát mồ hôi nó thật khó chịu. Hoàn cảnh khó khăn, lúc đó đa số đồng đội tôi chết vì sốt rét còn nhiều hơn cả hy sinh ngoài trận mạc, hi sinh vì bom đạn. những người lính đi hành quân và hoàn cảnh thì khó khăn, có một chiếc chăn đơn mà tận hai người đắp chung và chúng tôi vẫn cảm nhận được khá ấm, tình đồng chí, đồng đội thật keo sơn biết bao nhiêu.

Chính từ những cái thiếu thốn, cái khó khăn như thế đã khiến cho những người lính chúng tôi như càng dễ dàng thông cảm và thấu hiểu cho nhau thật nhiều. Khi cuộc kháng chiến nổ ra, trong những ngày đầu vô cùng khó khăn vì phải chờ sự viện trợ từ quốc tế nữa. Thế nhưng cũng chính trong những ngày thiếu thốn quân trang quân bị, nhìn cái áo rách vai, thêm với đó chính là cái quần có vài mảnh vá, chúng tôi chỉ biết cười, nắm tay nhau để cùng vượt qua khó khăn, vượt qua gian lao. Rồi tôi còn nhớ lắm có cả những hôm hành quân trong rừng mà chân không giày, chưa hết, chân không giày còn cái rét như cắt da, cắt thịt càng khiến cho cuộc hành quân càng lúc càng khó khăn gấp bội.

Thế rồi cạnh những trắc trở, gian khổ thường thấy, đời lính cũng không hiếm những phút giây lãng mạn. Thế rồi có bao nhiêu hôm phục kích chờ giặc, kế bên đồng đội, tôi còn có vầng trăng trên cao làm bạn cho vơi bớt đi sự đơn chiếc. Được ngắm nhìn ánh trăng chiếu rọi khắp nhân gian, tôi cảm nhận thấy được khu rừng không còn âm u, vắng lặng mà mang nét thơ mộng, trông vô cùng trữ tình hiếm có. Khi màn đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần khiến cảnh rừng Việt Bắc như đẹp hẳn lên.

Khi cuộc chiến đã đi qua hơn nửa đời người nhưng cứ mỗi lần ngồi nhớ lại những năm tháng ấy, thực sự trong tôi dâng lên một niềm xúc động không thể nào tả được hết. Đối với tôi thì chính tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn chính là sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và đi tới thắng lợi trong cuộc kháng chiến cho dân tộc.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 5

“Chín năm làm một Điện BiênNên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”

Mỗi lần đọc lại câu thơ ấy của Tố Hữu, trong tôi lại ùa về biết bao kỉ niệm của những năm tháng kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng. Tôi nhớ những ngày hành quân ra trận, nhớ những hôm liên hoan cùng bà con đồng bào. Nhưng có nhẽ, để lại dấu ấn rõ nét hơn cả là những người đồng đội đã cùng tôi kề vai sát cánh.

Nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng, tôi cùng nhiều người khác hăm hở lên đường đi đánh giặc. Vốn xuất thân là nông dân, hành trang của tôi chẳng có gì ngoài lòng nồng nàn yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, trong đơn vị cũng có tương đối nhiều người có xuất thân và hoàn cảnh giống tôi, chúng tôi nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết. Điều trước tiên chúng tôi trao đổi là về miền quê của mỗi người. Quê hương anh là một vùng chiêm trũng ven biển khó cấy cày làm ăn, còn quê tôi cũng chẳng khá hơn gì, là vùng trung du miền núi “chó ăn đá gà ăn sỏi”. Phải chăng cùng xuất thân từ những miền quê nghèo túng đã giúp chúng tôi xích lại sắp nhau hơn? Giữa bọn tôi tồn tại một sợi dây thông cảm kì lạ mặc dù chỉ vừa mới quen biết. Hơn nữa, ngoài có chung hoàn cảnh xuất thân, chúng tôi còn chung cả lí tưởng và mục đích chống chọi. những người nông dân vốn xưa nay chỉ quen tay cấy tay cày bỗng giờ phải cầm súng chống chọi để bảo vệ ruộng nương nhà cửa, những người thân yêu và miền quê yêu dấu. Nói chúng tôi ra đi mà không lưu luyến là nói láo, nhưng vận nước đang lâm nguy, chẳng một người nào có thể ngồi yên chờ đợi. Tôi cùng đồng đội đành phải gác lại tất cả, quyết chí hy sinh vì Tổ quốc.

Tây Bắc vốn nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Những cơn sốt rét rừng vẫn còn sợ hãi tôi tới tận bây giờ, khi nghĩ lại vẫn thấy rùng mình ớn lạnh. người nào trải qua rồi mới biết cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi nó thế nào. Thực tế, số đồng đội tôi chết vì sốt rét còn nhiều hơn cả hy sinh ngoài trận mạc. Khi ấy, có một chiếc chăn đơn mà tận hai người đắp chung. Thế nhưng, chính cái thiếu thốn, gian khổ: “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” ấy đã khiến chúng tôi dễ dàng thông cảm và thấu hiểu nhau nhiều hơn. Cuộc kháng chiến những ngày đầu vô cùng khó khăn vì phải chờ sự viện trợ từ quốc tế. Những ngày thiếu thốn quân trang quân bị, nhìn cái áo rách vai, cái quần có vài mảnh vá, chúng tôi chỉ biết cười, nắm tay nhau để cùng vượt qua khó khăn. Có cả những hôm hành quân trong rừng mà chân không giày, cộng với cái rét cắt da cắt thịt làm cho cuộc hành quân trở nên gieo neo gấp bội phần.

Tham Khảo Thêm:  Bình giảng khổ cuối bài thơ quốc gia của Nguyễn Đình Thi

kế bên những trắc trở, gian khổ thường thấy, đời lính cũng không hiếm những phút giây lãng mạn. Những hôm phục kích chờ giặc, kế bên đồng đội, tôi còn có vầng trăng trên cao làm bạn. Ngắm nhìn ánh trăng chiếu rọi khắp nhân gian, khu rừng không còn âm u, vắng lặng mà mang nét thơ mộng, trữ tình hiếm có. Đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần. Có lúc trăng như đang treo lửng lơ trên đầu ngọn súng, tâm hồn người đội viên bỗng chốc biến thành thi sĩ.

Cuộc chiến đã đi qua hơn nửa đời người nhưng mỗi lần nhớ lại những năm tháng ấy, trong tôi dâng lên một niềm xúc động khó tả. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn chính là sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và đi tới thắng lợi trong cuộc kháng chiến.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 6

Trải qua bao nhiêu năm tháng khổ đau, vất vả, cuối cùng chiến tranh đã đi qua. ngày hôm nay, ngồi trong ngôi nhà nhỏ, trong cái sự bình yên của quốc gia, tôi đã có thể ngước nhìn lên ánh trăng sáng rực giữa bầu trời đêm. Ánh trăng gợi nhớ cho tôi về những kỉ niệm ngày còn cùng đồng đội tham gia chống chọi trong chiến khu Việt Bắc. Đó là những đêm trăng dài cùng người đồng chí thân yêu trải qua mà tôi vẫn nhớ mãi tới tận bây giờ.

Anh và tôi, gặp nhau trong chiến khu. Cả hai chúng tôi lúc ấy còn là những người trẻ, vô tư và tràn đầy nhiệt huyết. Quê hương anh “nước mặn đồng chua”, làng tôi nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Chúng tôi đều có xuất thân từ những vùng đất khó khăn, hoàn cảnh nghèo túng như nhau cả. Mang theo vẻ hồn nhiên chân thật của người lao động, anh và tôi đã sớm thân quen với nhau.

Chúng tôi vốn dĩ là hai con người hoàn toàn xa lạ, bằng một cách nào đó đã gặp nhau và trở nên thân thiết. có nhẽ tình cảm giữa tôi với anh ngày một nảy nở qua những lần cùng làm chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau lúc chống chọi. “Súng bên súng, đầu kề sát đầu” cùng ra vào nơi chiến trường đầy nghiêm trọng. Lại nhớ những đêm cùng đắp chung chăn dưới nền trời lạnh cóng. Đó là mối tình tri kỉ giữa anh và tôi-tình đồng chí giản dị mà thanh cao.

Anh và tôi là hai người có cùng chung chí hướng, là hai con người rời khỏi quê hương để tham gia chống chọi. Chúng tôi dù có xuất thân khác nhau nhưng có nhẽ cùng một giấc mơ-giấc mơ về ngày quốc gia độc lập. Những đêm cạnh nhau, anh kể tôi nghe chuyện về quê hương anh. Ruộng nương anh gửi cả cho bạn thân mình cày hộ, còn ngôi nhà đành phải bỏ mặc cho gió to tàn phá. Anh lại kể, kể những câu chuyện riêng tư, anh chia sẻ cho tôi mọi nỗi lòng của mình, những suy nghĩ thầm kín ấy được anh nói ra một cách chân thật và đầy đủ. Mỗi ngày trôi đi, tôi lại càng hiểu về anh nhiều hơn, mối quan hệ của chúng tôi vì vậy ngày một thắm thiết.

Chúng tôi cùng nhau trải qua bao gian lao của chiến tranh.Lúc ấy ở rừng có đại dịch sốt rét. Anh em chiến hữu của tôi chết rất nhiều, bởi vì lúc ấy vẫn chưa có bất cứ loại thuốc hiệu quả nào để chữa trị cả. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, rét run cả người, toàn thân thể ướt ngập mồ hôi. Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá. Trải qua đại dịch tương tự nhưng chúng tôi luôn bên nhau, tương trợ cho nhau vượt qua khó khăn. mỏi mệt là vậy nhưng mồm vẫn cười?, lạnh cóng là thế nhưng vẫn luôn cười, phần vì không thể để anh lo lắng, mặt khác, nụ cười là động lực giúp tôi nỗ lực từng ngày. Anh nắm tay tôi thật chặt, động viên tôi, tiếp thêm sức mạnh vượt qua bệnh tật.

Rồi khỏe bệnh, anh và tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ. Những đêm rừng hoang sương muối, anh và tôi đứng canh gác cạnh bên nhau “chờ” giặc tới. có nhẽ tình đồng chí của chúng tôi đã sưởi ấm lòng giữa cảnh rừng hoang lạnh giá. Trong cảnh phục kích giặc giữa rừng, chúng tôi còn một người bạn nữa, đó là vầng trăng. Súng và trăng tuy sắp mà xa, nhưng lại bổ sung và hài hòa vào nhau, giống như tình đồng chí của tôi và anh. Trong cái buốt giá luồn vào da thịt, đầu súng của người đội viên và vầng trăng đứng cạnh bên nhau, đầu súng có trách nhiệm bảo vệ vầng trăng hòa bình.

quốc gia bây giờ đã độc lập, bình yên. Tôi bây giờ đã có thể sống một cách thoải mái không lo sợ chiến tranh. Tuy nhiên, đôi lúc tôi lại nhớ về khoảng thời gian còn chống chọi, nhớ về anh-người bạn tri kỉ của mình. Tất cả những gian khổ của đời lính tôi đã có thể vượt qua được, nhờ vào sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội. Đó là khoảng thời gian mà tôi sẽ luôn nhớ mãi.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 7

Chưa kịp vui mừng sau thắng lợi của cách mệnh Tháng Tám thì năm 1946, thực dân Pháp đã nổ súng tái xâm lược nước ta. Thực hiện lệnh tổng động viên của Chính phủ kháng chiến, nhân dân cả nước tích cực tham gia chống chọi, quyết không sống chung với quân thù. Với ý thức nồng nàn yêu nước, căm ghét quân thù tột độ, tôi cũng hăm hở tòng quân. Sau khi nhận lệnh ở cơ sở, tôi được điều về Trung đoàn thủ đô, thuộc sư đoàn 308. Đây là một đơn vị có bề dày lịch sử hào hùng. Nhiệm vụ của trung đoàn là bảo vệ thủ đô, bảo vệ chính phủ và giúp bà con tản cư về khu kháng chiến.

Là người nông dân, chỉ biết cày ruộng, làm vườn, chưa quen tay súng nhưng tôi không quản ngại gieo neo chinh chiến nơi biên ải. Chí làm trai trong cơn nguy biến phải vì nợ nước thù nhà mà dũng cảm, can trường, tiếp nối truyền thống ông cha, viết tiếp những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng. Dù chưa được tập dượt nhưng tôi rất tự tin. Cuộc chống chọi sẽ dạy tôi làm điều đó. Lòng yêu nước vô hạn động viên tôi giữ chắc tay súng. Lòng yêu nước sẽ giúp tôi vững tâm trong cuộc chiến với quân thù hung bạo.

Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Cùng tham gia chiến dịch còn có những đơn vị khác. Chúng tôi được phân công nhiệm vụ chống chọi và ngăn chặn những cánh quân của địch tiến công lên khu căn cứ. Để hợp tác tác chiến hiệu quả, chúng tôi sáp nhập nhiều đơn vị với nhau, cùng hỗ trợ nhau trong nhiệm vụ và cuộc sống. Ban ngày, chúng tôi vừa tổ chức hành quân truy kích quân địch. Ban đêm, đơn vị sẽ ngơi nghỉ lấy sức. Việc quân nơi rừng núi lúc nào cũng nghiêm nhặt. Tuy quân thù còn ở xa nhưng lúc nào chúng tôi cũng tăng cảnh giác, ngừa cao.

những người lính từ những quê hương xa lạ, cùng yêu nước, căm thù giặc đã tề tựu về đây trong một đơn vị. Thân với tôi có một đội viên quê ở tận miền duyên hải. Quê hương anh nước mặn đồng chua, quanh năm gian lao. Anh mới gia nhập đơn vị sau tôi, trong đợt tuyển quân vừa rồi. Nước da ngăm đen, bàn tay chai sần vì chài lưới, anh mang cả cái chất đồng quê tới chiến trường. Tôi đã vốn không biết gì về chiến trường, anh còn “thơ ngây” hơn cả tôi nữa. Đôi trưởng tập anh sử dụng súng AK và lựu đạn mà tới hơn tháng anh mới làm được. Đội trưởng phân công tôi phải phụ trách hướng dẫn anh nhiều hơn.

“Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” từ những miền quê xa xôi, chúng tôi đã gặp nhau nơi này. Chính tình yêu nước và ý thức chống chọi xoá sổ quân thù, phóng thích quốc gia đã gắn kết chúng tôi lại với nhau.

Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khổ. Thời gian đầu tổ chức kháng chiến, ta chưa có quân trang, quân dụng đầy đủ. Vũ khí cũng hết sức thô sơ. Lương thực, thuốc thang và những nhu yếu phẩm khác lại càng thiếu thốn. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh. Đầu không có mũ, chân không có giày. Mỗi lần dẫm bàn chân trần trên lá khô tôi không khỏi rùng mình. Rừng Trường Sơn ma thiêng nước độc, thú dữ đã nhiều, rắn rết cũng vô số. Hôm qua, một đồng chí đã dẫm phải con rắn mang bành, bị cắn vào chân. Cái chân sưng vù lên kinh khủng. Đơn vị vội tìm thầy thuốc trong làng để chữa trị. Tạm thời, đồng chí ấy phải ở lại cho tới khi vết thương lành hẳn.

Việc ăn uống cũng hết sức khem khổ vì đơn vị đang trên phố truy kích quân thù. những đội viên quân nhu chăm lo điều này cho chúng tôi dù đã nỗ lực hết sức nhưng cũng không thể làm gì được trong tình thế này. Hiểu thế, nên chúng tôi không người nào than vãn hay kêu ca điều gì. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, không chiếu. Cái lạnh rừng núi căm căm cắt vào da thịt chúng tôi. Để giữ ấm chúng tôi nằm sát cạnh nhau. khá ấm nhiều người lan tỏa khiến tôi càng mến yêu, càng khâm phục ý thức hy sinh vì nước của những anh.

Sợ nhất là bệnh sốt rét rừng. quân thù chúng tôi có thể thắng lợi, gian khổ chúng tôi có thể vượt qua nhưng những cơn sốt rét rừng tàn bạo cứ lặng lẽ bào mòn thân thể chúng tôi. Đó là một căn bệnh kinh khủng, là khó khăn lớn nhất mà chúng tôi luôn đối mặt. Đó là một quân thù vô hình đáng sợ. Tôi cũng đã từng mắc phải căn bệnh ấy. Cơn sốt làm tôi run rẩy khắp người ê buốt. Mồ hôi cứ tuôn ra như tắm, ướt cả mấy lớp áo. Anh bạn ngồi lau cho tôi hết khăn này tới khăn khác, đôi mắt lo lắng như muôn khóc. Tôi mỉm cười động viên, anh cũng gượng gạo cười theo.

Tưởng chừng mình sẽ ra đi như bao đồng chí khác. Nhưng thật may mắn, tôi đã vượt qua. Tôi vẫn sống nhờ sự săn sóc tận tình của người đồng đội. Lúc mê man bất tỉnh nhân sự, đồng đội luôn ở cạnh tôi. Họ lo lắng, săn sóc tôi từng chút một như săn sóc cho một người thân. Họ dành tất cả thuốc thang cho tôi. Khi vượt qua cơn nguy kịch, sức khỏe còn yếu, anh bạn tôi còn đi tìm bồi dưỡng cho tôi bằng món cháo thịt hoẵng thơm nức mà anh vừa săn được.

Thật không thể diễn tả hết sự gắn bó, keo sơn thắm thiết tình đồng chí, đồng đội của chúng tôi. Chính nhờ sức mạnh ấy đã giúp chúng tôi vượt qua biết bao khó khăn gian khổ. Chính tình đồng đội thiêng liêng ấy đã giúp chúng tôi giữ vững ý thức chống chọi, bám sát nhiệm vụ. Tình yêu thương, sự đồng cảm, cả lòng mến phục khiến chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, cùng vào sinh ra tử bao trận đụng độ. Tình đồng đội sâu đậm kết tinh trong tình yêu nước thiêng liêng, là nguồn sức mạnh vĩnh hằng xuyên suốt trong trái tim người lính.

Những đêm cùng nhau canh gác, chúng tôi kể chuyện cho nhau nghe cho bớt đơn điệu. Anh bạn tôi kể lại ngày ra đi kháng chiến. tuổi xanh chưa bao giờ rời làng quê sông nước. Giờ xa rời muôn trùng thấy nhớ vô cùng. Ngày ra đi đất trời đẫm lệ. Nhìn vợ dại con thơ, mẹ già sức yếu anh không nỡ đành lòng. Nhưng tổ quốc đang cần. Tổ quốc đang lâm nguy. Kháng chiến cần anh. Dân tộc đang cần anh. Gửi lại ruộng vườn nhờ bạn thân trong nom, cày xới, anh gạt nước mắt lên đường. Đêm ấy mưa rơi tầm tã. Ngồi trong xe mà những giọt nước mắt cứ ròng rã ròng rã chảy. Ôm chặt tay súng, anh hứa khi giặc giã đầu hàng, anh sẽ trở về.

Tôi cũng giống như anh, cũng vừa rời quê hương biết bao yêu mến. Chợt nhớ về giếng nước gốc đa, mái ngói, sân đình mà ngùi ngùi. Nhớ người vợ trẻ từng đêm chờ đợi bên ngọn đèn khuya, đôi mắt mòn mỏi ngóng trông. Cha tôi qua đời từ lâu. Mẹ tôi cũng cao tuổi lắm rồi. Cái tuổi sắp đất xa trời chắc gì đã đợi tới ngày tôi thắng lợi trở về.

Tôi lặng im, nhìn về phía xa xăm. Trên đỉnh núi, vầng trăng khuya cũng lặng im. Vầng trăng nghiêng nghiêng như treo trên đầu súng. Vâng trăng trầm tư nghĩ ngợi, đồng cảm cùng con người. Ôi, cũng vầng trăng ấy đã sáng trên những đồng quê, trên những ruộng lúa, soi bóng trên dòng sông xanh. Cả tuổi thơ tôi ngập bóng trăng vàng. Vầng trăng thủy chung, son sắt ấy giờ lại cùng chúng tôi hành quân và chống chọi. Trăng mãi mãi tình nghĩa với con người như chúng tôi mãi mãi kiên trung với quê hương quốc gia.

Những đêm trăng rừng đằng đẵng. Những đêm trăng rừng rét buốt. Ẩn sau bóng tối là biết bao điều nghiêm trọng, bất trắc. Nhưng kế bên tôi luôn có những anh. kế bên tôi luôn có những người đồng đội đồng cam cộng khổ, thủy chung son sắt. Tôi tự hào khi có mặt ở đây. Tôi tự hào khi tham gia cuộc chống chọi này. Tôi tự hào khi đứng cạnh những anh trong trận đụng độ đấu với quân thù. Nhìn vầng trăng chênh chếch như treo trên đầu súng của người bạn, tôi tin tưởng ở ngày mai thắng lợi. Vầng trăng ấy lại sáng soi trên khắp đồng ruộng hòa bình của quê hương, quốc gia

Cuộc chiến nào chẳng có mất mất hy sinh. Nhiều đồng chí của tôi đã ngã xuống. Họ không chết. Họ hóa thân vào với quốc gia, để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng. Họ là những người anh hùng của thế kỉ. Tên tuổi của họ mãi mãi sẽ được tổ quốc vinh danh. Nghĩ về điều thiêng liêng đó, tôi giữ chặt tay súng, mắt đăm đăm dõi bóng quân thù.

Dan y Dong chi 700Đóng vai người lính kể lại bài Đồng chí hay nhất

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 8

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi tham gia chống chọi trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947. Không thể nào kể hết những trắc trở, thiếu thốn và đủ mọi nguy nan trong cuộc kháng chiến ấy. Thế nhưng thật may mắn là nhờ có ý thức yêu nước, tình đồng chí, đồng đội đã giúp tôi và những người lính vượt qua và làm nên thắng lợi.

Còn nhớ khi tôi vào trong quân ngũ, cứ ngỡ chỉ mình là xuất thân nghèo túng bần hàn, thế nhưng những người lính khác người nào cũng từ người nông dân mà trở thành lính, quê hương họ cũng nghèo túng. Quê anh thì nước mặn đồng chua, quê tôi thì đất cày lên sỏi đá. Tình đồng chí giữa chúng tôi khởi đầu từ điểm tương đồng xuất thân và hoàn cảnh nghèo túng ấy. Để rồi từ những người xa lạ khắp mọi miền quốc gia, khác xa phương trời chẳng hứa gặp gỡ mà lại thành người bạn, người đồng chí. Đối với những hoàn cảnh khắc nghiệt nơi chiến trường, cùng nhau chống chọi, cùng chung lí tưởng cách mệnh là đã trở thành đồng đội. Chúng tôi chống chọi vì quê hương, quốc gia, vì sự hòa bình và độc lập của dân tộc, ấy là điểm chung gắn kết. Mùa đông vùng Việt Bắc gió rét tràn về, tôi cùng anh bạn đắp chung một cái chăn. Chiến trường thì lấy đâu ra chăn ấm, chiếu êm. người nào nấy đều bị cái lạnh hành tội, đắp cùng nhau tấm chăn, chia sẻ cho nhau khá ấm, thế là hóa tri kỉ.

Chúng tôi xa nhà thì nhớ lắm. Chúng tôi bỏ lại ruộng vườn, gian nhà, quê hương để tới đây chống chọi, bảo vệ sự bình yên nơi xóm làng. Lắm lúc đồng đội buồn: “Không biết ở nhà dạo này thế nào rồi. người nào cấy cày cho mẹ già, người nào chu đáo cho ngôi nhà mỗi khi gió mùa về? Anh thương nhớ lắm chú à!”, những lúc ấy, tôi chỉ biết vỗ vai anh yên ủi. Chúng tôi cùng nhau chia sẻ mọi gian lao, từng cơn ớn lạnh, từng trận sốt rét, quần áo cũng chẳng người nào còn lành lẽ hơn người nào. chống chọi vất vả và gieo neo lắm, chân không giày, áo rách, quần vá rồi lại ốm đói nhưng chỉ cần tình đồng chí của người lính, chúng tôi cầm tay nhau là có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Nhớ nhất là những đêm giữa núi rừng hoang vu lạnh lẽo, sương muối ướt đẫm đôi vai áo, chúng tôi vẫn đứng cạnh bên nhau, sát cánh để chờ giặc tới. Đối với tôi khi ấy, sức mạnh của tình đồng chí mạnh mẽ hơn cả, giúp tôi vượt lên sự khắc nghiệt của thời tiết, nghiêm trọng khi chờ giặc. Đồng hành cùng chúng tôi trong những đêm ấy chính là vầng trăng sáng. Đêm về khuya, ánh trăng sà thấp xuống như treo đầu ngọn súng. Vầng trăng sáng tỏ khiến tôi vững tin vào thắng lợi của kháng chiến và hòa bình trên quê hương một ngày không xa.

Giờ đây, suy nghĩ đó của tôi đã thành hiện thực, chưa khi nào tôi quên đi những năm tháng hào hùng ấy. Thi thoảng, tôi vẫn cùng những người lính chống chọi năm xưa ôn lại chuyện cũ. thương nhớ biết bao những năm tháng đã qua…

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 9

Tôi là một người lính từng tham gia kháng chiến chống Pháp. Câu thơ của Tố Hữu đã ghi lại thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mỗi khi đọc lên mọi xúc cảm lại dậy lại trong lòng khiến tôi bổi hổi khôn xiết. Phải chăng? Tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó là một trong những nguyên nhân góp vào thắng lợi tự hào dân tộc.

Chúng tôi đa số là những anh lính nông dân xuất thân từ những miền quê nghèo túng tôi hỏi bạn:

– Quê anh ở đâu

– Quê tôi ở vùng đồng bằng chiêm trũng ven biển khó làm ăn cấy cày lắm!

– Tôi cũng vậy. Quê tôi ở vùng đồi núi trung du nơi “Chó ăn đá gà ăn sỏi” cây cối xác xơ nghèo túng.

có nhẽ vì vậy mà chúng tôi dễ xích lại sắp nhau chăng? Chính sự đồng cảm giai cấp khiến con người trở lên sắp gũi dễ thông cảm chia sẻ.

Không chỉ vậy chúng tôi còn chung lí tưởng nhiệm vụ rời bỏ tay cày tay quốc. Chúng tôi cầm súng bảo vệ chính quyền non trẻ, nền độc lập tự do vừa mới giành được. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng Hồ yêu kính chúng tôi từ mọi phương trời xa lạ tập hợp trong hàng ngũ quân đội cách mệnh…

Ngày ấy cuộc sống khó khăn gian khổ thiếu thốn lắm nhưng chính cái khó khăn gian khổ nắm cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng đã khiến chúng tôi sắp gũi thân thiết tự lúc nào chẳng hay. Cái chăn đắp lại tâm sự mở ra thế là thành tri kỉ hiểu bạn hơn hiểu chính mình tất cả gọi nhau là đồng chí, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng biết mấy. Nó khẳng định chúng tôi cùng chung đoàn thể tổ chức, lí tưởng nhiệm vụ có sự đồng đẳng gắn bó thân thiết có nhẽ cách gọi ấy là kết tinh cao độ bậc nhất của mọi tình cảm từ tình giai cấp -> tình bằng hữu và cao hơn hết là tình người.

Ôi! Tiếng gọi thiêng liêng “Đồng chí”!

Là đồng chí của nhau chúng tôi chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm nhớ quê hương xuất thân từ giai cấp nông dân, với chúng tôi ruộng nương, gian nhà là những thứ quí giá nhất, giếng nước gốc đa là những gì thân quen nhất vậy mà chúng tôi đều bỏ lại. Tất cả ra đi vì nghĩa lớn. Anh bạn tôi tâm sự: ngôi nhà không trống tuếch giờ đây lại thiếu vắng trụ cột gia đình nên càng trống vắng hơn giờ hết. Nhưng anh vẫn dứt khoát ra đi. Còn nước là còn nhà tất cả đều có chung suy nghĩ tương tự ko phải là thái độ vô tình bởi nếu như vô tình chúng tôi chẳng nhận được nỗi nhớ của quê hương: Mẹ già, vợ trẻ, con thơ.

Là đồng chí của nhau chúng tôi còn chia sẻ những trắc trở thiếu thốn về quân trang quân phục động viên nhau vượt qua bệnh tật đó là những cơn sốt rét rừng tàn phá sức khỏe gớm ghê lại thiếu thốn thuốc thang. Tôi thì áo rách vai, anh thì quần có vài mảnh vá. Tôi thì chân không giày, anh thì đầu không mũ, giữa những cái lạnh của núi rừng Việt Bắc vậy mà tất cả vẫn sáng lên nụ cười lạc quan sưởi ấm cả không gian giá buốt.

Đặc biệt hơn nữa, là đồng chí của nhau chúng tôi còn chia sẻ tình cảm bền chặt, tình thật nhất thông qua cái nắm tay thay cho mọi lời nói không ồn ào nhưng cái nắm tay chất chứa bao điều muốn nói: Nắm tay để truyền cho nhau khá ấm. Sưởi ấm đôi bàn chân buốt giá, cao hơn là truyền cho nhau nghị lực để vượt qua mọi khó khăn nghiêm trọng. Và đó còn là lời chào lời hứa hứa lập công trước lúc vào trận đánh chúng tôi thấu hiểu chẳng cần nói thành lời. Ôi tình cảm keo sơn ấy khiến tôi xúc động mãi.

Nhưng có nhẽ kỉ niệm về những đêm sát cánh trong hào chiến đấu phục kích chờ giặc tới in đậm khó phai trong tâm trí tôi nhất. Thời tiết khắc nghiệt vô cùng sương muối giá rét đầu ngón chân ngón tay giá buốt như có kim châm. vậy mà tôi và đồng đội vẫn cầm chắc tay súng chủ động chờ giặc tới, cái tư thế vành đồng vách sắt đã làm mờ đi mọi khó khăn khốc liệt. Đêm ấy là một đêm có trăng. Trăng lửng lơ ở trên cao cứ xuống thấp dần thấp dần có lúc tưởng như treo đầu mũi súng.

Chúng tôi chống chọi để bảo vệ vầng trăng hòa bình trả lại sự bình yên cho dân tộc quốc gia. kế bên đồng đội của mình chúng tôi còn một người bạn nữa chính là vầng trăng. Trăng soi rọi bước đường hành quân trăng bầu bạn chia sẻ ngọt bùi. Trước giờ nổ súng vẫn thảnh thơi. nhìn vầng trăng, tôi thấy mình và đồng đội có ý thức thép cao đẹp biết bao! Và có nhẽ Súng, trăng là một cặp đồng chí gợi ra bao liên tưởng thú vị. Súng và trăng là sắp và xa là chất chống chọi và trữ tình, đội viên và thi sĩ, chất thép chất thơ, chiến tranh và hòa bình, rắn rỏi và dịu hiền bổ sung cho nhau khẳng định mục đích cuộc chống chọi.

Cuộc chiến đã lùi xa hòa bình đã trở lại nhưng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã ghi một mốc son trong lịch sử vàng dân tộc. Mong rằng thế hệ trẻ ngày nay biết kế thừa truyền thống ông cha, học tập tốt xây dựng quốc gia hùng cường dũng mạnh cảnh giác trước mọi mưu mô xâm lấn lãnh thổ của quân thù.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 10

Ngồi trên chiếc ghế đá mát lạnh tôi ngước nhìn khung trời màu xanh biếc, vô tận mà tôi nhớ tới ngày xưa. Những tháng ngày tôi cùng đồng đội ở chiến khu, nơi biên giới, cửa ải chuẩn bị ra trận. Tôi hớp một ngụm chè xanh có hương vị đăng đắng đặc trưng thân thuộc, rồi xoay đầu qua nhìn ông bạn Tâm cũng đang chuyên chú nhìn phương xa. Tôi bảo: “Mới đây nhanh quá ông nhỉ, thoắt đã hơn chục năm rồi.”, ông ấy mỉm cười nói: “Ừ, đúng thế”. Và cả hai cùng ngồi thẫn ra, đều mang vẻ vui buồn lộn lạo…

Những năm 1946, thực dân Pháp lại một lần nữa xâm chiếm quốc gia, cùng với một quy mô hùng hậu và nhiều loạt vũ khí tối tân thời bấy giờ. Lúc ấy tôi chỉ vừa tròn hai mươi tuổi nhưng vì độc lập quốc gia, tôi đã gia nhập hàng ngũ bằng cả trái tim của mình dù biết phải xa gia đình để tới chiến khu. Tuy ở chiến khu rất gieo neo và khó khăn nhưng ở đó tôi không hề đơn chiếc. Vì tôi đã có thêm rất nhiều người anh em, có cùng chí hướng với tôi là giành lại tự do cho quốc gia, cho nhân dân và tôi gọi họ là những “đồng chí”. Trong đó có ông bạn vẫn luôn gắn bó với tôi tới bây giờ.

Lúc đầu tôi chưa quen lắm, nhưng dần dần chúng tôi trở nên thân thiết nhiều hơn như bằng hữu lâu năm. Mỗi tối bọn chúng thường ngồi tụ lại với nhau rồi kể chuyện của mình cho những người còn lại nghe. Bỗng có một anh lớn hơn tôi tầm hai, ba tuổi hỏi: “Quê chú ở đâu ra sao?” tôi trả lời: ” Em ở một ngôi làng nghèo đất cày lên sỏi đá luôn đó anh.” Nói tới đây tôi chợt nhớ tới ba mẹ chốn quê nhà, không biết mẹ có còn đau chân hay không, ba có đỡ bệnh chưa. Rồi anh ấy lại nói: “Quê hương anh cũng nghèo lắm, nước thì mặn, đồng thì chua. Khổ lắm chú ạ, lúa nó cứ chết hoài.”. Mọi người say sưa ngồi cười cười, nói nói suốt đêm mà không người nào hay biết gì hết, cho tới tận trời tờ mờ sáng.

Tham Khảo Thêm:  Thuyết minh về tác giả Trương Hán Siêu

Tôi nhớ những ngày còn ở chiến khu, túp lều của chúng tôi được dựng ở những cánh rừng núi hoang vu nên đêm xuống sương ẩm che phủ khắp mọi nơi. Chúng tôi đã nỗ lực san sẻ chăn cho nhau để giữ ấm rồi trở thành những đôi tri kỷ. Nhưng cho dù chúng tôi có chăn đi nữa thì nó vẫn không đủ ấm và có một số người bị bệnh rất nặng. Vì là rừng nên muỗi cũng nhiều đặc biệt là loại muỗi truyền bệnh sốt rét. quân nhân đã bỏ xác không ít người chỉ do loại bệnh chết người này, hàng ngũ dần ít đi. Điều đó khiến những người còn lại trong đó có tôi vô cùng hoảng loạn nếu như tình hình này vẫn cứ tiếp tục…

Nhưng chúng tôi, những người yêu quê hương, tổ quốc sẽ không bao giờ gục ngã bởi bất kỳ trở ngại nào. Vì nền độc lập quốc gia, không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đã bỏ qua sự ích kỷ của riêng mình, nỗi sợ hãi tư nhân để xung phong lên đường cứu nước. Nhưng chắc chắn trong lòng mỗi người nhớ luôn tới người thân ơi quê nhà, lo lắng nhà cửa bây giờ có bình yên hay không. Tất cả chúng tôi bỏ lại sau lưng những nỗi nhớ da diết vì đại cuộc, cho dù phải hy sinh.

Trên tuyến đường hành quân, mọi người chúng tôi phải leo lên từng con dốc, băng qua từng dòng suối siết chảy. Chúng tôi cứ đi mãi, đi mãi, từ ngày này qua ngày kia không kể bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Mặc cho thời tiết có thế nào, dù nắng hay mưa, chúng tôi vẫn luôn vượt qua. Đi tới nỗi quần áo của mọi người cũng bạc màu và rách đi vài chỗ. Không chỉ thế, chân chúng tôi cũng đã chai sần vì đi quá nhiều vả lại chúng tôi chẳng có một đôi giày chắc chắn để mang. Tuy thế chúng tôi không màng tới. Đôi lúc khi trời rét lạnh nhưng bên trong chúng tôi vẫn hừng hực lửa, quyết tâm chống chọi lại với sự ghẻ lạnh của thiên nhiên và mỉm cười cùng đồng đội, cùng nắm tay đi qua hết đoạn đường đầy hóc búa này.

Ban đêm, khu rừng ngập tràn sương muối lạnh buốt cả hai tay. Xung quanh tối mù mịt, những tán cây cũng trở nên tối đen, chỉ còn ánh trăng óng ánh màu bạc tỏa chiếu khắp nơi. Chúng tôi núp dưới bụi cây to, vai vác trên mình những cây súng thô sơ chờ địch tới rồi chớp lấy thời nhưng mà xông lên. Đó là một trận quyết liệt giữa quân dân Việt Nam và bọn thực dân hung ác.

Giờ đây chiến tranh đã kết thúc, chúng tôi cũng đã lớn tuổi nhưng kỷ niệm thời niên thiếu về những lần xông pha trên chiến trường sẽ không bao giờ xóa nhòa trong lòng tôi, cũng như mọi người. Những kỷ niệm chúng tôi ngồi kể chuyện, ca hát với nhau về niềm tin thắng lợi của quốc gia. Tất cả như một câu chuyện mà tôi không bao giờ kể hết được nhưng nó sẽ chẳng bao giờ có thể mất được.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 11

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra điNào có mong chi đâu ngày trở vềRa đi ra đi bảo toàn sông núiRa đi ra đi thà chết chớ lui”

Mỗi lần nghe lại những nhạc điệu hào hùng này trong lòng tôi lại trào lên những xúc cảm khó tả. Tôi – người lính trong chiến dịch chống Pháp năm ấy. Những năm tháng mưa bom bão đạn, những năm tháng đói khổ gieo neo và những năm tháng của tình đồng đội tình đồng chí keo sơn gắn bó đối với tôi là những năm tháng đầy trị giá và quý báu, khắc tạc nên những kỉ niệm không thể phai nhòa trong ký ức và trái tim cách mệnh nhiệt thành này.

những người lính chúng tôi từ những miền quê khác nhau, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc cùng sum họp về đây, về dưới ánh sáng lý tưởng của ngọn cờ cách mệnh. Buổi đầu với bao bỡ ngỡ, xa lạ chúng tôi chào hỏi nhau bằng những câu trân thành, chất phác: Quê anh ở đâu? Anh bạn tòng ngũ cùng tôi ngày ấy không ngần ngại chia sẻ: “quê tôi vùng ven biển ngập mặn, ít phù sao; mùa màng khó khăn” Tôi cũng thiệt thà đáp cùng : “Còn tôi lại sinh ra ở vùng quê xơ xác; đất đai cằn cỗi; cây cối hoa màu khó mà phát triển; kinh tế đói kém, chiến tranh tàn phá khiến cho đời sống con người khốn khó trăm bề” Cái vỗ vai thấu hiểu đầy thông cảm, sự sẻ chia nhọc nhằn; trân thành; và cả cái chất phác của những anh nông dân như đã xua tan đi mọi khoảng cách, mọi sự xa lạ, kéo những người lính chúng tôi xích lại sắp nhau hơn. Đó cái mục làm quen của người lính nó mộc mạc, chất phác và giản đơn lắm những bạn ạ.

Chúng tôi tới đây vì ước mơ phóng thích dân tộc, thống nhất quốc gia và hy vọng cuộc sống giàu có, hạnh phúc cho muôn nhà, muôn nơi.

Trước khi về đây chúng tôi người nào cũng đã từng có cho mình những ước mơ; hoài bão và cả những định hướng riêng cho thế cục mình. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi hiểu và chúng tôi thèm khát biết nhường nào 2 chữ “Tự do”. Bởi vì thể chúng tôi vẫn quyết tâm hòa ước mơ riêng vào ước mơ chung; hi sinh cái tôi tư nhân; bỏ mặc lại quê hương; gia đình; tình yêu lên đường ra chiến trường tòng ngũ; đánh đuổi quân thù. Trong lòng chúng tôi cũng buồn lắm chứ, cũng nhớ và yêu quê hương da diết lắm chứ nhưng chúng tôi nhận thức được rõ ràng hơn cả: “Có độc lập quê hương, gia đình mới có thể yên bình’. Chính động lực đó đã nâng bước những chàng trẻ trai ngày ấy mang súng hăng say ra chiến trường lập công.

Cuộc sống người lính khởi đầu với bao gian khổ, hi sinh và mất mát. Cơm ăn không đủ no, đi nhiều hơn ngủ; hành quân liên tục. Tôi còn nhớ mãi trận sốt rét giữa rừng hoang lạnh giá năm ấy. những người đồng đội của tôi và cả tôi phải đối diện với căn bệnh quái ác- sốt xuất huyết; lương thực và thuốc thang thì không kịp tiếp viện cho quân đội, chúng tôi cứ thế mê man, sốt run người. Khí hậu khắc nghiệt; địa hình hiểm trở như những con quỷ chỉ chực nuốt trọn những tấm thân gầy gò, xanh xao, bệnh tật ấy. Những đôi bàn tay nắm chặt, động viên yên ủi; dìu dắt nhau qua những hang núi hiểm trở. Người ốm cõng người ốm, người ốm săn sóc cho người ốm; cùng nhường nhau bát cháo loãng húp vội; đắp cho nhau chiếc khăn lạnh giữa chặng đường hành quân. Nhớ lại những tháng ngày đấu tranh nghiệt ngã với bệnh tật với thiên nhiên lòng tôi lại đau xót tới nhói lòng. Trận dịch bệnh năm ấy đã cướp đi của tôi biết bao người đồng đội, những anh nằm lại tản mác trên cung đường hành quân, được đắp vội tấm chiếu và tấm lòng tiếc thương của người ở lại. Và rồi chúng tôi lại tiếp tục lên đường hành quân, tiếp tục chống chọi và sẻ chia cùng nhau.

Sẻ chia tình thần , sẻ chia vật chất trong cuộc sống gian lao; thiếu thốn của người lính. Áo anh sờn chỉ rách vai thì quần tôi đã có vài mảnh vá. Anh đừng lo, tôi ấm thì anh cũng phải ấm, một chiếc chăn cũng đủ cho đôi ta. Gió bấc ngoài kia cứ việc thét gào còn trong này tình thương rét mướt của tôi với anh vẫn cứ thể rực sáng, nồng đượm.

những người lính xa lạ từ mọi miền quê hương qua sự thử thách của đất trời, của khó khăn đã un đúc nên tình cảm tri kỉ đáng giá, đó là tình Đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí” với biết bao ân tình bao nghĩa nặng cao cả.

Đặc trưng của người lính chúng tôi là những cái nắm tay. Nắm tay để động viên nhau cùng nỗ lực; nắm tay để kéo nhau đứng dậy, sải bước tiếp trên tuyến đường cách mệnh đầy trắc trở, nắm tay để trao nhau tình yêu thương, sự quan tâm và sẻ chia và cái nắm tay để hứa hứa lập công giành thắng lợi, hứa không xa sẽ trở lại mang theo niềm vui thắng trận.

Cuộc sống người lính giản dị mà ý tức là thế đó. Người lính không biết nói những câu thơ hoa mĩ, người lính chỉ biết nói cho thực cái bụng của mình, chỉ biết sử dụng những hành động để thể hiện ý chí và tấm lòng son sắt.

Còn nhớ mãi những đêm canh gác giữa rừng hoang giá buốt năm ấy. Trời thì lạnh buốt; gió cứ từng cơn ào ào; tất tả xả vào mặt tê tái nhưng chúng tôi vẫn thực hiện mọi nhiệm vụ canh gác như thường. Chúng tôi canh gác để ngừa giặc tiến công bất thần; để canh cho giấc ngủ chớp nhoáng yên bình của những đồng đội khác. Ánh trăng đêm nay lên cao quá, sáng quá. Ánh trăng lan tỏa khắp không gian; treo trên mũi súng người lính. Tôi nghĩ tới ánh trăng hòa bình, có nhẽ ánh trăng hòa bình sẽ còn đẹp và tròn vành hơn rất nhiều. Trăng với súng sóng sánh bên nhau phải chăng tượng trưng cho lý tưởng cách mệnh cao đẹp, cho dự đoán tương lai thắng lợi chẳng xa. Hình ảnh đó thật đẹp; thật lãng mạn; in sâu trong tâm trí tôi những đêm dài chống chọi, phục kích và cho tới tận bây giờ…

quốc gia độc lập, thống nhất, chúng tôi trở về quê nhà, có những người lính người đồng đội đã mãi mãi hi sinh đã nằm xuống nhưng tình đồng chí của chúng tôi vẫn mãi vẹn nguyên và mặn mà như thế. Cảm ơn lời thơ Đồng chí của thi sĩ Chính Hữu đã thay tiếng lòng của tôi gửi tới những người anh em thuở ấy. Tôi mong rằng máu xương của chúng tôi sẽ được thế hệ sau trân trọng và phát triển để dựng xây quốc gia ngày càng phát triển và giàu đẹp hơn nữa.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 12

Hòa Bình đã lập lại, cuộc sống của tôi đã ổn định và êm đềm bên những con, những cháu. Thế nhưng mỗi khi nhớ tới cuộc chiến năm xưa, trong lòng tôi lại thấy rộn rực cứ như tất cả mới chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Hôm vừa rồi, cháu tôi đọc cho nghe bài thơ Đồng chí, bài thơ khiến toàn bộ kí ức năm xưa ùa về.

Thuở ấy, tôi cũng như biết bao nhiêu thanh niên Việt Nam khác, hừng hực khí thế và lòng căm thù quân giặc. Nước Việt Nam của chúng ta vốn trù phú là thế vậy mà lũ giặc đã tới và không để cho chúng ta được yên. Chính lũ giặc đã khiến nước ta trở nên nghèo đói. Quê hương tôi ngày ấy đất đai cằn cỗi cày lên toàn sỏi đá. Những vùng quê khác cũng chẳng khá hơn, toàn nước mặn với đồng chua. Thanh niên trong làng được huy động hết ra chiến trường đánh giặc. Làng quê chỉ còn toàn người già và trẻ nhỏ. Được đi đánh giặc cũng là mong ước của tất cả những thanh niên chúng tôi thời ấy. Thậm chí có thằng còn khai man tuổi để đủ tuổi đi đánh giặc. Vào lính rồi, mỗi người được phân về một tiểu đội. Năm ấy, tôi được phân vào tiểu đội tham gia chống chọi trong chiến dịch Việt Bắc. Trận đánh lớn đã mang lại vẻ vang cho non sông Việt Nam và tôi thấy mình thật may mắn vì đã được tham gia vào trận đụng độ ấy.

Nhắc tới những năm tháng ấy, có nhẽ người nào cũng đã rõ. Đó là những năm tháng bom đạn khốc liệt. Đồng đội của tôi đã hi sinh không biết bao nhiêu người. Đau thương lắm. Tôi không muốn nhắc lại chuyện buồn, chỉ muốn nhắc tới tình đồng chí keo sơn, nhắc tới những người anh em đã từng cùng mình vào sinh ra tử. Đồng đội của tôi cũng xuất thân là những anh nông dân nghèo. có nhẽ chính vì hoàn cảnh giống nhau nên chúng tôi nhanh chóng trở nên thân thiết. Chúng tôi nói chuyện và chia sẻ với nhau về nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà. Bạn tôi kể rằng anh phải gửi lại nhà cửa, ruộng nương cho bạn. Tôi cũng không khá hơn là bao. Mẹ tôi năm ấy già yếu, tôi vẫn phải để cụ lại nhờ những người láng giềng thăm nom. Bây giờ ở nơi suối vàng chắc bà cũng hãnh diện về tôi. Nói thực, thanh niên như chúng tôi hăm hở ra trận là vậy nhưng thật lòng lo cho gia đình nhiều lắm. Cũng chính vì lo lắng cho hậu phương nên chúng tôi càng thêm quyết tâm chống chọi.

Vào lính, đồng đội thành người thân. Chúng tôi chia sẻ với nhau từng miếng khoai, miếng sắn. Đêm tới đắp chung nhau một tấm chăn mỏng cho khỏi rét. Tôi nhớ có lần đồng đội của tôi phải chịu cơn sốt rét rừng. Có bao nhiêu chăn, chúng tôi gom cả lại cho đồng đội đắp. Nhìn đồng đội mồ hôi vã ra mà người vẫn run lên vì lạnh, tôi không tài nào kìm được nước mắt. Cảnh ở rừng thứ gì cũng thiếu, thuốc không có, chúng tôi chỉ biết cam chịu. May sao người đồng đội của tôi cũng qua khỏi. Chính anh sau này đã xé vai áo của mình ra để vá vào chiếc quần của tôi. Tôi hàm ân anh vô cùng vì sự hi sinh thầm lặng ấy. Lần tôi bị thương khi đi rừng, anh đã nắm chặt lấy tay tôi và động viên. Đêm xuống, tôi cùng đồng chí của mình canh gác. Trăng treo trên đầu súng. Hình ảnh ấy tôi nhớ mãi không quên.

Năm ngoái tôi hay tin đồng chí của mình qua đời. Tôi đau xót lắm mà tuổi già không cho phép tôi tới gặp đồng chí lần cuối. Thôi thì nhân câu chuyện này, tôi cũng muốn gửi một lời cám ơn tới đồng chí của mình. Có đồng chí mới còn có tôi ngày ngày hôm nay.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 13

Đối với những người lính cách mệnh như chúng tôi thì chắc không bao giờ có thể quên được những năm tháng gian lao chống thực dân Pháp. Quên không được là do những nỗi vất vả, đau thương, mất mát đã gây ra bởi chiến tranh, và cũng không thể quên tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn. Tình đồng chí một niềm tự hào để cho tôi nhớ về, kể về khi nhắc tới chín năm kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Tôi vốn là một người nông dân xuất thân từ miền núi trung du khô cằn, “đất cày lên sỏi đá”. Cả đời tôi chưa bao giờ có thời cơ bước ra khỏi lũy tre làng nên tầm nhìn còn thiển cận cứ nghĩ rằng một đời sẽ sống an bình nơi chốn làng quê thanh tịnh. Thế nhưng tất cả sự bình yên của làng tôi nói riêng và cả nước nói chung đã bị phá tan bởi tiếng súng của bọn Pháp tàn ác.

Bọn giặc xâm lấn giày xéo tổ quốc ta, khinh thường nhân dân ta. Được cách mệnh giác ngộ, theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng Hồ, nhiều người nông dân áo vải như tôi đã khăn gói lên đường chống chọi. Ruộng nương thì gửi cho bạn thân cày,gian nhà xiêu vẹo cũng mặc cho gió lung lay. Người nông dân thời bấy giờ dù một chữ bẻ đôi cũng không có nhưng mang nhiệt tình cách mệnh và lòng yêu nước thiết tha.

Lúc tòng ngũ, tôi đã gặp được rất nhiều người cùng hoàn cảnh với mình. Có một đồng đội cũng là gốc nông dân nghèo khổ như tôi. Quê anh thuộc vùng ven biển “nước mặn đồng chua”, quanh năm làm lụng vất vả cũng túng thiếu, nghèo khổ. Sự tương đồng về hoàn cảnh khiến chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Những tháng ngày chống chọi, cùng chung hào chiến đấu ” súng bên súng, đầu sát bên đầu”, rồi cả những đêm rét chung chăn đã khiến chúng tôi hiểu rõ hoàn cảnh của nhau hơn thành đôi tri kỉ. Tôi nhớ hoài lời anh tâm sự:

– Anh biết không, nơi quê nhà tôi còn cha già,mẹ yếu, vợ dại con thơ.. Nói là mặc kệ, lại tất cả để lên đường chống chọi nhưng tôi nhớ quê làng với giếng nước gốc đa sân đình, gia đình, bạn bè. Chao ôi, nhớ quá!

Lời của anh cũng là lời của tôi, của bao người lính chống Pháp. Anh ơi, tôi cũng thương nhớ lắm quê nhà lắm chứ, nhưng quốc gia có chiến tranh thì làm sao đành lòng sống yên phận cho riêng mình. chưng Hồ đã nói bọn giặc rất man di, ta nhân nhượng chúng càng lấn tới, hạnh phúc tư nhân không còn khi quốc gia bị xâm lược. Rồi tôi cũng sẻ chia với anh những nỗi niềm thầm kín. Tình đồng đội của chúng tôi gắn liền với lí tưởng chống chọi vì độc lập tự do dân tộc cùng đứng chung hàng ngũ cách mệnh. Lúc đó chúng tôi gọi nhau là đồng chí. Ôi, hai tiếng đồng chí thật thật thiêng liêng, nói lên được sự gắn bó của chúng tôi rất nhiều trong thế cục người lính.

Người đồng chí của tôi đã cùng tôi vượt qua bao gian khổ, thử thách ở những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi tôi nóng sốt do cơn sốt rét rừng hành tội trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc thang, anh đã săn sóc tôi chu đáo, anh lấy khăn ướt lau trán cho tôi để hạ sốt. Khi tôi rét run, anh chẳng ngại nhường chiếc chăn duy nhất của mình cho tôi giữ ấm mình. Rồi anh cũng ngã bệnh vì cơn sốt rét rừng hoành hành ở Việt Bắc, tôi cũng săn sóc anh bằng cả tấm chân tình. Làm sao có thể quên được những tháng ngày khốn cùng ấy! Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày nhưng chúng tôi vẫn mỉm cười vui vẻ, lạc quan. Chúng tôi yêu thương nhau, hiểu nhau thật nhiều. Chỉ cần bàn tay nắm lấy, chúng tôi hiểu mình đã có đồng chí ở kế bên cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cảm với mình, cùng kết đoàn chống chọi. Bàn tay nắm lấy động viên nhau vượt qua gian khổ đối với tôi còn quý hơn lời nói. Có người nào hỏi tôi kỉ niệm nào đáng nhớ nhất của tình đồng chí, tôi không cần phải suy nghĩ Đó là những đêm phục kích nơi rừng hoang sương muối, chúng tôi vẫn đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới, tay cầm chắc súng, ý thức vững mạnh vì cảm thấy có đồng chí kế bên. Lúc đó, mũi súng di động quan sát, đầu súng chênh chếch hướng lên trời. Chao ôi! Ánh trăng, vầng trăng nơi núi rừng Việt bắc mới sáng rõ làm sao! Ánh trăng vằng vặc như chiếc đĩa bạc to đang lung linh như treo đầu ngọn súng. Mũi súng hướng tới đâu, trăng cũng theo tới đó. Giữa núi rừng tĩnh mịch chỉ có chúng tôi: “đôi bạn lính, súng và cả ánh trăng trên cao”. Chúng tôi như được gắn kết với nhau. Thật tuyệt diệu. Tình đồng chí đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi chống chọi, quyết tâm giành thắng lợi về cho Tổ quốc.

Người đồng chí của tôi ơi! Chúng ta đã cùng nhân dân viết nên những trang vàng lịch sử trong quá trình giữ nước. Từ chiến dịch Việt Bắc thu đông tới chiến dịch Điện Biên Phủ vẻ vang, hai tiếng đồng chí luôn đựng lên trên bước đường hành quân của người lính. Quá khứ sẽ qua đi nhưng lịch sử vẫn còn mãi những âm vang hào hùng của một thời chống giặc. Chính tình đồng chí, tình yêu nước đã tạo điều kiện cho những người lính đa phần gốc nông dân đã làm nên thắng lợi vang lừng. Đó là chân lí, là sức mạnh của dân tộc tộc. Tình đồng chí đã được phát huy trong thời chống Mĩ và cả thời hòa bình. Hai tiếng đồng chí thật thiêng liêng, cao đẹp luôn gợi nhiều xúc động trong tôi- người lính đã tham gia cuộc kháng chiến chống giặc Pháp năm xưa.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 14

Chiến tranh đã rời xa, quốc gia đã hòa bình được hai năm. Thế nhưng trong tâm trí tôi vẫn in đậm những năm tháng kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng đó. Biết bao kỉ niệm tràn về nhưng có nhẽ nhớ nhất là những đồng chí đã cùng kề vai sát cánh bên tôi.

Năm 1945, chiến tranh nổ ra. Khắp nơi tràn đầy khói lửa chiến tranh. Nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng, tôi cùng những thanh niên trong làng tích cực đăng kí tham gia kháng chiến. Từ một người nông dân chỉ quen cầm cuốc cầm cày, tôi rời quê hương tới với chiến trường khốc liệt, cầm trên tay cây súng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người thân yêu, bảo vệ quê hương cùng những hạnh phúc giản dị nơi đây. Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong đơn vị hầu như là những gương mặt xa lạ từ bốn phương trời hợp lại. Thế nhưng bởi vì cùng là nông dân từ những miền quê nghèo tới, cùng chung hoàn cảnh xuất thân thế nên rất nhanh tôi và mọi người đã làm quen được với nhau. Đặc biệt, tôi rất thân với dũng cảm. Quê anh là ở một vùng chiêm trũng ven biển, đất chua rất khó trồng trọt. Còn làng tôi cũng là miền đất trung du đất cày lên sỏi đá, quanh năm khô cằn. Rất nhanh chúng tôi đã trò chuyện như quen thói từ lâu.

Chúng tôi đóng quân ở chiến khu Tây Bắc. Thời chiến tranh tao loạn, hoàn cảnh thiếu thốn đủ thứ. Tôi vẫn nhớ những đêm ở đây với cái rét thấu xương, tôi và anh cùng chung nhau cái chăn mỏng, nằm sát bên nhau tâm sự. Tôi và anh chia sẻ với nhau nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thân. Anh kể về ngôi nhà tranh tồi tàn bây giờ để không trải qua mưa gió, về mảnh ruộng nhỏ ra đi phải nhờ bạn thân trông coi hộ, về hình ảnh người thân trong phút chia li. Thế nhưng tất cả đều không ngăn được quyết tâm ra đi của anh. Chúng tôi đều chung một lí tưởng, một mục tiêu chung, mặc cho nỗi nhớ quê nhà vẫn vững tay súng bảo vệ quê hương. Những câu chuyện nhỏ như thế, những tâm sự từ đáy lòng chia sẻ với nhau làm chúng tôi càng thêm gắn bó, trở thành tri kỷ của nhau. Và rồi dần dần trở thành một tình cảm thiêng liêng hơn mà bây giờ tôi càng trân trọng: tình đồng chí.

Chiến tranh gian khổ thiếu thốn đã để lại cho tôi nhiều kỉ niệm đáng quý. Tại vùng núi lạnh lẽo ấy, sợ hãi nhất là những cơn sốt rét rừng. Cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi vẫn còn in sâu vào trong trong tâm trí tôi bây giờ, chỉ nghĩ lại đã thấy rùng mình. Khi ấy, chiến khu thiếu thốn thuốc thang, chúng tôi phải tự mình chống chọi với cơn sốt rét đó. Chính những giây phút thiếu thốn đó mà chúng tôi càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Rồi cả những ngày đầu vô cùng khó khăn phải chờ sự viện trợ từ quốc tế, chúng tôi thiếu thốn đủ thứ. Cái áo thì rách vai, quần thì vá nhằng nhịt, thậm chí trong thời tiết lạnh lẽo như thế chúng tôi còn phải đi chân trần. Nhưng khó khăn như thế chúng tôi cũng không nản lòng. Nụ cười trong lạnh giá, cái nắm tay truyền khá ấm là động lực tiếp thêm niềm tin, sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua tất cả.

Đặc biệt tôi nhớ nhất những lúc kề vai sát cánh cùng nhau. Những hôm phục kích địch, chờ đợi trong đêm tối, trong rừng hoang đọng lại cả sương muối, chúng tôi đứng bên nhau dưới ánh trăng. Ngắm nhìn ánh trăng, cùng chờ đợi giặc tới. Đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần, có lúc như treo trên đầu ngọn súng. Trăng khi ấy chính là minh chứng cho tình đồng chí keo sơn của chúng tôi.

Những tháng ngày kháng chiến thật khó khăn, nguy hiểm nhưng thật may mắn vì bên tôi luôn có những đồng chí đồng đội cùng kề vai sát cánh chống chọi. Chính tình đồng chí keo sơn gắn bó đã truyền cho tôi sức mạnh tiếp tục chống chọi, góp một phần sức lực tạo nên thắng lợi cho dân tộc.

Tham Khảo Thêm:  Phân tích bài thơ Phản chiêu hồn

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 15

Sau thắng lợi mùa thu năm 1945, chưa thừa hưởng niềm vui độc lập được lâu nay thì thực dân Pháp nổ súng xâm lược trở lại nước ta. Tôi, một người nông dân chất phác của vùng quê nghèo túng, đã nghe theo lệnh tổng động viên của chính phủ, để lại quê hương lên đường theo kháng chiến với quyết tâm sẽ không để quốc gia mình rơi vào tay quân thù một lần nữa.

Vốn quen với tay cầm cuốc, quen với công việc đồng áng vườn tược, nay lại cầm trên tay khẩu súng, thật tình tôi chưa quen. Nhưng với ý thức yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm, tôi không quản ngại khó khăn nghe theo lời chỉ bảo của anh em để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chúng tôi hành quân trên khắp những nẻo đường ra trận mạc, những đêm trăng luôn soi sáng mỗi bước đường tôi đi. Dù chưa được qua tập dượt nhưng tôi tin chắc rằng với lòng yêu nước, chúng tôi có thể vượt qua mọi gian lao khó khăn để giành cho bằng được độc lập tự do.

Năm 1947, đơn vị chúng tôi tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác. những người vốn dĩ không hề quen biết nhau nay lại trở thành những người anh em, đồng chí, cùng chia sớt ngọt bùi đắng cay. Lòng yêu nước là sợi dây kết nối chúng tôi lại với nhau và sớm trở thành những người tri kỉ không biết tự bao giờ.

Tôi quen Kiên cũng trong hoàn cảnh ấy. Anh bạn quê miền biển sớm trở thành người anh em thân thiết với tôi. Anh tâm sự với tôi về nỗi nhớ nhà, về quê hương miền duyên hải nước mặn đồng chua của anh quanh năm gian lao. Tôi kể anh nghe về làng quê nghèo nơi đất cày lên sỏi đá của tôi, cả hai đều có chung một gia đạo nghèo túng, cùng xuất thân từ những người nông dân chân lấm tay bùn. Tôi còn nhớ mãi nụ cười hiền lành chất phác của người đội viên nông dân ấy, nụ cười ánh lên trong hoàn cảnh thiếu thốn đầu thời chiến bấy giờ. những người anh em chúng tôi từ những phương trời xa lạ, từ bốn phương trời chẳng hứa mà bỗng chốc quen nhau. Cùng chung mục đích chống chọi, cùng lí tưởng cách mệnh soi sáng, chúng tôi sớm trở thành những người bạn tri kỉ, chia sẻ với nhau từ miếng ăn giấc ngủ, từ những nỗi nhớ gia đình, quê hương.

Thời ấy, chúng tôi phải sinh hoạt trong thiếu thốn. Quân trang, quân dụng chẳng đủ sử dụng, có khi hai người phải chia sẻ cho nhau một tấm chăn đơn. Rừng Trường Sơn ma thiêng nước độc, đã có lần cả đơn vị bị căn bệnh sốt rét rừng hành tội tới vàng da, rụng tóc, cả người cứ xanh bủng đi như tàu lá chuối mà anh em chúng tôi chưa bao giờ tắt tiếng cười. Trời vào đông, cát rét căm căm như cắt vào từng làn da thớ thịt, áo tôi rách vai, quần anh đầy mảnh vá, chân không có già. Anh em cứ dựa vào nhau mà truyền cho nhau khá ấm, nắm lấy tay nhau để tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội vượt qua bệnh tật để cả đơn vị lại cùng nhau chống chọi. Những buổi đêm tương tự, tôi và Kiên thường chia sẻ với nhau những nỗi nhớ nhà. Anh tâm sự anh đã gửi bạn thân ruộng nương cấy cày, anh bỏ lại sau lưng ngôi nhà tranh liêu xiêu cuối làng, anh đã dứt lòng để lại mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận. Anh nhớ giếng nước, mái đình, gốc đa đầu làng, nhớ từng ngọn cỏ quê hương, nhớ mẹ già ngày đêm mong nhớ con đằng đẵng. Nói tới đây mà tôi cũng rưng rưng chợt khóc, tôi chỉ biết động viên anh, cũng là động viên chính tôi để vượt qua nỗi nhớ nhà.

Dù khó khăn gian khổ nhưng nơi chúng tôi đóng quân chưa bao giờ vơi đi tiếng cười. Nhớ khi tôi bị cơn sốt rét rừng hành tội, trong cơn mê, tôi nghe thấy tiếng anh em đồng chí gọi nhau mang cho tôi miếng nước, tôi thấp thoáng thấy bóng Kiên đang ngồi sát cạnh tôi với đầy vẻ lo lắng hiện lên trên gương mặt. Những lúc tương tự, tôi lại có thêm sức mạnh để chống chọi lại cơn bệnh đang hành tội tôi yếu mòn đi từng ngày. Thế rồi, có nhẽ chính nhờ tình cảm của anh em mà tôi đã sống sót kì diệu cho dù đã có lúc tưởng như cánh cửa tử sinh đã khép lại trước mắt tôi.

Này chú, đêm nay lại đi gác chứ? Anh em mình lại thêm được buổi ngắm trăng cuối rừng rồi đây! – Kiên hóm hỉnh nhìn tôi cười.

Giữa không gian rừng núi của Trường Sơn đại nghìn, dưới cái lạnh căm căm của mùa đông với sương muối giăng mắc khắp nơi khắp chốn, bóng anh và bóng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không người nào nói với nhau một câu, xung quanh chỉ còn nghe thấy tiếng gió hẻo lánh thổi trên ngọn cây nhưng lòng tôi vẫn thấy vô cùng rét mướt. Cuộc chiến hãy còn dài lắm và những người lính áo vải chúng tôi có nhẽ phải rời xa quê hương thêm một khoảng thời gian dài nữa. Thế nhưng cứ nghĩ tới hình ảnh lá cờ đỏ thiêng liêng của Tổ quốc bay phơi phới dưới bầu trời hòa bình, nhớ tới niềm vui phóng thích của đồng bào nơi chúng tôi đi qua và đặc biệt là những người anh em đã sát cánh bên tôi, mọi gian khổ khó khăn đều tan biến hết thảy. Được sống và chống chọi cho lí tưởng cao cả của dân tộc, đời người lính chúng tôi nào mong có điều gì tuyệt vời hơn thế!

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 16

Sau Chiến dịch mùa thu năm 1945, thực dân Pháp lại nổ súng tiến công tái xâm lược nước ta. Trước hiện thực quốc gia gian lao, tôi cùng một số người bạn của mình nơi vùng quê cùng nuôi chí lớn hăm hở tham gia góp sức mình vào công cuộc bảo vệ quốc gia. Bằng một lòng yêu nước nồng nàn, tôi quyết tâm trở thành một người lính nguyện hi sinh bản thân vì nền độc lập của nước nhà.

Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc vào năm 1947 cùng với nhiều những quân đoàn khác. Tôi có dịp được tiếp xúc và trò chuyện với nhiều người lính cùng tham gia vào chiến dịch. Là những người xa lạ, chúng tôi có thời cơ được họp mặt nhau cũng là vì lời kêu gọi của tổ quốc. Nói chuyện với nhau, tôi mới biết rằng giữa những người lính chúng tôi có rất nhiều điểm chung: đều là những người nông dân chất phác làm ăn, tay chưa quen cầm súng. nếu như như tôi tới từ vùng trung du đất đai khô cằn sỏi đá, bạc màu mưa nắng thì anh lại xuất thân từ vùng đồng chiêm trũng ven biển, đất đai nhiễm phèn với nỗi sợ hãi nghìn đời chiêm khê mùa thối. Tuy tới từ những vùng miền khác nhau nhưng chúng tôi đều thấm thía cái khổ, cái khắc nghiệt của đời làm nông dân. Là những người anh em sẽ cùng kề vai sát cánh bên nhau chống chọi vì quốc gia, chúng tôi đã nhanh chóng trở thành những người tri kỉ, gắn bó bên nhau vào sinh ra tử. Có người đồng chí chia sẻ với tôi rằng tham gia vào cuộc chiến này anh vừa vui vừa buồn. Vui vì có thể đóng góp sức mình cho công cuộc phóng thích chung của cả dân tộc nhưng buồn vì còn vợ con ngóng chờ nơi quê nhà, ruộng nương thì vứt đó đành gửi nhờ bạn thân trông coi, vậy là cả một gia tài cả đời làm lụng vất vả giờ đây không biết làm thế nào. Thế nhưng anh bảo, anh vui nhiều hơn là buồn bởi tham gia vào cuộc chiến là anh tự nguyện, chống chọi và hi sinh cho tổ quốc là nguyện vọng cả đời của anh cốt có thể một phần góp sức đem lại hòa bình, giàu có cho nhân dân. Nghe anh nói thế, tôi nghẹn ngào mà xúc động lại như được tiếp thêm sức mạnh trong suốt cuộc hành quân vất vả.

Tây Bắc vốn là chốn rừng thiêng nước độc. Nhiều người đã phải thiệt mạng không phải vì hi sinh trên chiến trường mà vì cơn sốt rét tai ác do không có thuốc chữa trị. Thậm chí sau này, khi đã bước ra khỏi cuộc chiến tranh gian lao, từng cơn sốt rét rừng vẫn còn sợ hãi trong tâm trí tôi. Phải là người trực tiếp trải qua mới thấy nó đáng sợ tới thế nào, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi, bên trong thì lạnh buốt. Chúng tôi chỉ là những người lính nghèo phải tự xoay sở giữa không gian núi rừng hoang vu lạnh giá. Thiếu thốn quân trang, quân phục, chân thì đi đất nhưng trên tất cả, chúng tôi, những người lính vẫn có nhau, luôn đồng hành và thấu hiểu cho nhau. Chính bởi vậy mà chúng tôi luôn lạc quan, mồm nở nụ cười mà không ngừng tiến lên phía trước, nắm lấy tay nhau đựng bước tiến lên trong cuộc hành quân đầy rẫy những gian khổ, khắc nghiệt.

Khó khăn, gieo neo là vậy, thế nhưng đời lính chúng tôi vẫn có được những giây phút hết sức lãng mạn giữa không gian núi rừng hoang vắng. Đêm xuống, sương muối dày đặc phủ kín cánh rừng hoang vu. Cái lạnh tê tái của mùa đông núi rừng như cứa vào da vào thịt chúng tôi. Thế nhưng, đứng canh gác điều làm tôi chú ý hơn cả là vầng trăng tròn vành vạnh ở trên cao. Trăng như người bạn đường của những người lính trong suốt những mùa chiến dịch đầy gian truân, vất vả. Ánh trăng trên tỏa ánh sáng xuống mặt đất như thức cùng những người lính chúng tôi trong đêm. Có được những giây phút thơ mộng mà lãng mạn như thế này, cùng nhau tôi lại thấy chúng tôi được gắn kết với nhau sắp hơn chút nữa. có nhẽ chính tình đồng chí đồng đội góp phần biến giây phút này trở nên đẹp đẽ và yên bình hơn bao giờ hết.

Tham gia vào chiến dịch nào có người nào biết được sống chết lúc nào, nhưng vượt lên trên tất cả những nỗi sợ tầm thường ấy, tôi luôn sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tổ quốc bởi có nhẽ tôi luôn biết rằng tôi không đơn độc một mình mà sẽ luôn có những người đồng chí, đồng đội tri kỉ trung thành cùng tôi vào sinh ra tử để có thể đi qua mọi gian lao, chống chọi tới cùng vì một lí tưởng cao cả của dân tộc sau này.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 17

Trải qua những năm tháng gian khổ nơi chiến trường đầy thương vong, cuối cùng tôi cũng đã được trở về ngôi nhà nhỏ trong sự yên bình, hạnh phúc. Ngước nhìn lên bầu trời trong sạch kia, ánh trăng trên cao như gợi nhớ tôi trở về với những ngày cùng đồng đội chinh chiến trong chiến khu Việt Bắc. Đó là những đêm trăng khắc nghiệt nhưng rét mướt tình đồng chí.

Anh và tôi cùng gặp nhau trong chiến khu. Chúng tôi ngày ấy đều là những người trẻ mang đầy nhiệt huyết và quyết tâm chống chọi cho Tổ quốc. Anh tới từ nơi nước mặn đồng chua, tôi tới từ đất khô cằn cày lên sỏi đá. Cả hai đều là những người nông dân lao động, vì chung lý tưởng cao đẹp mà tụ hội cùng một nơi.

có nhẽ chúng tôi đã gắn bó hơn từ những lần cùng làm chung nhiệm vụ, những khi sát cánh bên nhau chống chọi. Nhớ những đêm đông nơi rừng thiêng nước độc, chúng tôi phải đắp chung một chiếc chăn mỏng dưới nền trời lạnh giá. Đó là mối tình đồng chí, giản dị mà thanh cao khiến tôi phải ghi nhớ suốt đời.

Tuy tới từ hai nơi khác nhau, nhưng chúng tôi đều có chung chí hướng, có chung ước mơ về một ngày quốc gia giành lại độc lập. có rất nhiều năm lạnh lẽo, anh kể tôi nghe về quê hương của anh, anh kể về những câu chuyện anh đã trải qua trong đời, kể cả những tâm tư thầm kín mà anh đựng giữ lâu nay. Cứ thế, mối quan hệ chúng tôi ngày càng gắn bó và sâu đậm.

Không chỉ có giá rét, chốn rừng thiêng nước độc này còn ẩn chứa nhiều nghiêm trọng lớn hơn, đó chính là căn bệnh sốt rét rừng. Căn bệnh này đã cướp đi rất nhiều đồng đội của tôi trong chiến khu. Thời đó thiếu thốn lắm, chẳng có thuốc để chữa bệnh, cũng chẳng có đủ quần áo để sưởi ấm mình.

Thế nên, cảnh áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, cả hai ngồi cạnh nhau để trao khá ấm là một cảnh tượng thân thuộc. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không vì khó mà bỏ, vẫn luôn sát cánh tương trợ cho nhau vượt qua khó khăn. Dẫu mỏi mệt là thế, nhưng cuộc sống nơi đây cũng chẳng bao giờ thiếu vắng đi nụ cười. Nụ cười ấy chính là động lực để mỗi chúng tôi nỗ lực từng ngày để chạm tới ước mơ giành được độc lập cho quốc gia.

Khỏi bệnh, chúng tôi lại tiếp tục nhận nhiệm vụ. Ôi nhớ sao những đêm lạnh, sương muối nhường nhịn như phủ cả không gian, nhưng tôi và anh vẫn đứng gác cạnh bên nhau. nhường nhịn như lúc ấy, chính tình đồng chí đã sưởi ấm lòng những người đội viên nơi rừng hoang lạnh giá. Làm bạn với chúng tôi còn có cả vầng trăng sáng luôn đi theo trên đỉnh đầu.

Có những lúc đùa nghịch, nhìn đầu súng chạm vào vầng trăng như sắp như xa kia, tôi cảm giác nó cũng như tình đồng chí của chúng tôi, hài hòa và bổ sung cho nhau. Trong cái buốt giá luồn vào da thịt, đầu súng của đội viên và vầng trăng đứng cạnh nhau, như muốn nói rằng, người cầm súng có trách nhiệm phải bảo vệ cho ánh trăng hòa bình của dân tộc.

Giờ đây, quốc gia đã độc lập, nhà nhà đã thừa hưởng một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Tôi cũng đã có thể trở về quê hương, được sống thoải mái mà không cần lo sợ cái lạnh giá của đêm đông nơi rừng hoang. Nhưng tôi không thể quên được người bạn tri kỷ của mình. Những gian khổ của đời lính kia, tôi có thể vượt qua được đều nhờ vào sự tiếp sức của tình đồng đội. Ở quê nhà, chắc anh cũng đang nhớ về tháng ngày đồng cam cộng khổ kia chứ?

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 18

Ngày nay, trong thời bình, thật khó để có thể nói cho thế hệ trẻ hiểu được thế nào là tình đồng chí và ý nghĩa sâu xa thiêng liêng, cao đẹp của thứ tình cảm ấy. Tôi chỉ hy vọng câu chuyện tôi sắp kể sau đây sẽ giúp thế hệ sau hiểu được sức mạnh của tình đồng chí trong chống chọi và kháng chiến.

Năm ấy là chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, vừa qua cái nạn đói kinh khủng 1945 được 2 năm. Đâu đâu trên quê hương Việt Nam cũng là nghèo đói. Bước vào trong quân ngũ, tôi gặp những người lính. Họ cũng đều là những người con của làng quê nghèo túng, tình đồng chí, đồng đội của chúng tôi bắt nguồn sâu xa từ chính sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân. Quê những anh đất mặn đồng chua thì làng tôi cũng nghèo đất cày lên sỏi đá. Bởi vì chung giai cấp xuất thân, mục đích và lí tưởng chung đã khiến tôi và những người đồng đội trở nên thân quen. Rồi trong suốt quá trình chống chọi chúng tôi lại cùng chung nhiệm vụ, cùng hoàn cảnh, súng sát bên súng, đầu sát bên đầu, luôn song hành vượt qua mọi khó khăn. Tình đồng chí của chúng tôi càng nảy nở thì càng bền chặt, mỗi người đều chan hòa, chia sẻ và viện trợ lẫn nhau, trong mọi hoàn cảnh gian lao hay niềm vui chúng tôi đều coi nhau như tri kỉ, những người bạn chí cốt. Có những đêm rét giữa rừng núi hoang vu, tình đồng chí thật rét mướt trong những chiếc chăn nhỏ, chỉ đắp chung chăn đêm rét cũng có thể thành những đôi bạn tri kỉ. Tình cảm keo sơn ấy là sức mạnh cho anh em chúng tôi chống chọi vượt lên khó khăn cả về vật chất lẫn ý thức.

Giữa chúng tôi nhường nhịn như chẳng còn khoảng cách, thấu hiểu và thông cảm sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Có người nhớ quê nhà, nhớ ruộng nương nhà cửa, nhớ giếng nước gốc đa nhưng vẫn nỗ lực vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ. Không cùng nhau trải qua gian lao, những giây phút kề cận cái chết thì không phải là đồng chí. Tôi cùng những đồng đội của mình đã cùng trải qua những cơn sốt rét hành tội khi sống trong rừng. Còn nhớ, lần sốt rét kinh hoàng ấy, may nhờ có đồng đội săn sóc mà tôi có thể gắng gượng gạo để tiếp tục chống chọi. Có đồng đội kế bên gắn bó, chia sẻ và viện trợ dù áo có rách, dù quần phải vá dù chân không giày đi giữa trời rét buốt, chúng tôi vẫn mỉm cười. Chẳng ở đâu có sự gắn bó và đồng cảm sâu sắc như những người đồng đội trên chiến trường. Vào sinh ra tử, người lính chỉ cần có đồng đội, những bàn tay nắm lấy nhau như được tiếp thêm sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, thắng lợi mọi quân thù.

Tình đồng chí sưởi ấm lòng tôi mỗi đêm phục kích chờ giặc, tôi đứng bên đồng đội kèo dưới vầng trăng sáng, còn gì đẹp hơn tình cảm đồng đội khi ấy. Giữa rừng hoang, sương muối giá rét, tôi chẳng ngại khắc nghiệt thời tiết, chẳng sợ quân địch bởi tôi luôn có đồng đội chung sức, đồng lòng, có người bạn là vầng trăng luôn khích lệ cho cuộc chiến chính nghĩa của chúng tôi.

Phải nói thật, tình đồng chí đẹp mà bình dị một cách cao cả, giờ đây thế hệ trẻ gọi chúng tôi là những người lính quân nhân cụ Hồ. Cuộc sống người lính là vậy đó thưa những bạn trẻ, không hề tô vẽ, không chút thổi phồng, tất cả đều là cuộc sống thật, tình cảm thật.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí – Mẫu 19

Ngày ấy trước sự áp bức của bọn thực dân cướp nước, nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chưng, tôi cùng nhiều người khác hăm hở lên đường đi đánh giặc.

Vốn xuất thân là nông dân, hành trang của tôi chẳng có gì ngoài lòng nồng nàn yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, trong đơn vị cũng có tương đối nhiều người có xuất thân và hoàn cảnh giống tôi, chúng tôi nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết. Điều trước tiên chúng tôi trao đổi là về miền quê của mỗi người. Quê hương anh là một vùng chiêm trũng ven biển khó cấy cày làm ăn, còn quê tôi cũng chẳng khá hơn gì, là vùng trung du miền núi “chó ăn đá gà ăn sỏi”. Phải chăng cùng xuất thân từ những miền quê nghèo túng đã giúp chúng tôi xích lại sắp nhau hơn? Giữa bọn tôi tồn tại một sợi dây thông cảm kì lạ mặc dù chỉ vừa mới quen biết. Hơn nữa, ngoài có chung hoàn cảnh xuất thân, chúng tôi còn chung cả lí tưởng và mục đích chống chọi. những người nông dân vốn xưa nay chỉ quen tay cấy tay cày bỗng giờ phải cầm súng chống chọi để bảo vệ ruộng nương nhà cửa, những người thân yêu và miền quê yêu dấu. Nói chúng tôi ra đi mà không lưu luyến là nói láo, nhưng vận nước đang lâm nguy, chẳng một người nào có thể ngồi yên chờ đợi. Tôi cùng đồng đội đành phải gác lại tất cả, quyết chí hy sinh vì Tổ quốc. Vốn quen với tay cầm cuốc, quen với công việc đồng áng vườn tược, nay lại cầm trên tay khẩu súng, thật tình tôi chưa quen. Nhưng với ý thức yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm, tôi không quản ngại khó khăn, cùng nhau học tập, nỗ lực nghe theo lời chỉ bảo của anh em để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tây Bắc vốn nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Những cơn sốt rét rừng vẫn còn sợ hãi tôi tới tận bây giờ, khi nghĩ lại vẫn thấy rùng mình ớn lạnh. người nào trải qua rồi mới biết cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi nó thế nào. Thực tế, số đồng đội tôi chết vì sốt rét còn nhiều hơn cả hy sinh ngoài trận mạc. Khi ấy, có một chiếc chăn đơn mà tận hai người đắp chung. Thế nhưng, chính cái thiếu thốn, gian khổ: “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” ấy đã khiến chúng tôi dễ dàng thông cảm và thấu hiểu nhau nhiều hơn. Cuộc kháng chiến những ngày đầu vô cùng khó khăn vì phải chờ sự viện trợ từ quốc tế. Những ngày thiếu thốn quân trang quân bị, nhìn cái áo rách vai, cái quần có vài mảnh vá, chúng tôi chỉ biết cười, nắm tay nhau để cùng vượt qua khó khăn. Có cả những hôm hành quân trong rừng mà chân không giày, cộng với cái rét cắt da cắt thịt làm cho cuộc hành quân trở nên gieo neo gấp bội phần. Giữa không gian rừng núi của Trường Sơn đại nghìn, dưới cái lạnh căm căm của mùa đông với sương muối giăng mắc khắp nơi khắp chốn, bóng anh và bóng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không người nào nói với nhau một câu, xung quanh chỉ còn nghe thấy tiếng gió hẻo lánh thổi trên ngọn cây nhưng lòng tôi vẫn thấy vô cùng rét mướt. Cuộc chiến hãy còn dài lắm và những người lính áo vải chúng tôi có nhẽ phải rời xa quê hương thêm một khoảng thời gian dài nữa. Thế nhưng cứ nghĩ tới hình ảnh lá cờ đỏ thiêng liêng của Tổ quốc bay phơi phới dưới bầu trời hòa bình, nhớ tới niềm vui phóng thích của đồng bào nơi chúng tôi đi qua và đặc biệt là những người anh em đã sát cánh bên tôi, mọi gian khổ khó khan đều tan biến hết thảy.

kế bên những trắc trở, gian khổ thường thấy, đời lính cũng không hiếm những phút giây lãng mạn. Những hôm phục kích chờ giặc, kế bên đồng đội, tôi còn có vầng trăng trên cao làm bạn. Ngắm nhìn ánh trăng chiếu rọi khắp nhân gian, khu rừng không còn âm u, vắng lặng mà mang nét thơ mộng, trữ tình hiếm có. Đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần. Có lúc trăng như đang treo lửng lơ trên đầu ngọn súng, tâm hồn người đội viên bỗng chốc biến thành thi sĩ.

Cuộc chiến đã đi qua hơn nửa đời người nhưng mỗi lần nhớ lại những năm tháng ấy, trong tôi dâng lên một niềm xúc động khó tả. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn chính là sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và đi tới thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Qủa thật tình đồng chí đồng đội những tháng năm ấy thiêng liêng hơn bao giờ hết. Tôi luôn cảm thấy tự hào vì bản thân được cống hiến cho tổ quốc. những người đội viên đồng đội đã hi sinh nơi bom đạn chiến trường, cùng nhau sát cánh bên tôi vượt qua tất cả ấy chính là những người không chỉ khiến tôi mang ơn mà còn vô cùng thương xót. những bạn, những người trẻ tuổi nghe xong câu chuyện tôi kể hãy nỗ lực học tập thật tốt để đưa quốc gia ta ngày càng phồn vinh phát triển.

**************

Với hơn 20 bài văn mẫu Em hãy đóng vai người lính kể lại những kỉ niệm trong bài thơ Đồng chí được thầy cô chia sẻ trên đây. Hy vọng sẽ giúp ích cho những em có thêm tài liệu tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sâu sắc hơn. Chúc những em học tốt và đạt điểm cao khi gặp bài tập làm văn Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí.

Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong

Chuyên mục: Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: thptsoctrang.edu.vn

Bạn thấy bài viết Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí hay nhất (22 Mẫu) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí hay nhất (22 Mẫu) bên dưới để Trường THCS Võ Thị Sáu có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: vothisaucamau.edu.vn của Trường THCS Võ Thị Sáu

Nhớ để nguồn bài viết này: Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí hay nhất (22 Mẫu) của website vothisaucamau.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Danh Mục: Ngữ Văn

Web site: http://thpt-vinhdinh-quangtri.edu.vn/

Related Posts

Rút tiền Dwin68 qua ngân hàng và các phương thức thanh toán khác nhau

Bạn đang xem: Rút tiền Dwin68 qua ngân hàng và các phương thức thanh toán khác nhau TRONG vothisaucamau.edu.vn Thao tác đơn giản, nhanh chóng tương tự…

Viết đoạn văn ngắn bàn về Đường đến thành công hay nhất

Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn nói về Con Đường Thành Công. “Con đường thành công” là hình ảnh ẩn dụ cho hành trình gian khổ…

Top 30 Sơ đồ tư duy Vợ nhặt (dễ nhớ, dễ hiểu)

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung tác phẩm Vợ nhặt, với Top 30 Sơ đồ tư duy…

Viết đoạn văn ngắn bàn về Đừng sống như hòn đá hay nhất

Đề bài: Viết đoạn văn ngắn về Đừng sống như hòn đá. Nhà triết học người Mỹ, Elbert Hubbard đã từng nói: “Cuộc sống chỉ thực sự…

Hãy nói không với các tệ nạn (dàn ý – 10 mẫu)

Bài văn Hãy nói không với các tệ nạn gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 10 bài văn phân tích mẫu…

Phân tích bài Thuế máu hay nhất (4 mẫu) – Ngữ văn lớp 8

Phân tích bài Thuế máu hay nhất Đề bài: Phân tích bài “Thuế máu” (trích Bản án chế độ thực dân Pháp) của Nguyễn Ái Quốc. Phân…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *